Nhảy đến nội dung

Thơ Phúc Âm Tuần Ngày 26 tháng 10, 2025 -- , Ngày 1 tháng 11, 2025

Tuần  Ngày 26 tháng 10, 2025  -- , Ngày 1 tháng 11, 2025

==

==

26/10/2025

 

Chúa Nhật Tuần XXX - Mùa Thường Niên

 

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 18,9-14

 

Kẻ Khiêm Nhường Được Nâng Cao

 

Hai người lên điện cầu xin,
Một người Pha-ri-sêu, tin mình thiện lương.
Một người thu thuế đoạn trường,
Mang bao tội lỗi, vấn vương cõi lòng.

 

Người kia đứng thẳng hiên ngang,
Nguyện thầm rằng: “Lạy Chúa toàn năng ơi,
Tạ ơn, con chẳng dính đời
Tham lam, gian ác, kiếp người ngoại lai.

 

Con ăn chay mỗi tháng hai,
Dâng phần mười trọn, chẳng sai nghĩa gì.”
Tự cho công chính sân si,
Khinh ai tội lỗi – kể chi phận người.

 

Còn anh thu thuế nghẹn lời,
Đứng xa, cúi mặt – ngậm ngùi lệ rơi.
Đấm ngực, thống hối: “Lạy Trời,
Xin thương kẻ tội – một đời lỗi vương!”

 

Chúa rằng: “Người ấy về đường,
Được nên công chính – đoạt hương ân cần.
Còn ai tự tôn bản thân,
Sẽ nên hèn thấp trước ân Chúa Trời.

 

Ai hạ mình xuống, sáng ngời,
Sẽ được nâng cất cao nơi thiên đình.”
Ơn Cha chẳng ở hình xinh,
Mà trong lòng thật – niềm tin khiêm hòa.

 

Cúi đầu thống hối thiết tha,
Sống trong Chúa sáng chan hòa niềm vui.
Đừng khinh ai lỗi lầm rơi,
Vì ai chẳng có một thời sa chân.

 

Khiêm cung mở cửa hồng ân,
Còn kiêu ngạo khép linh hồn ngăn xa.
Xin cho con sống thật thà,
Để trong thương xót nở hoa ân tình.

 

==

In  French:

 

Le Pharisien et le Publicain

 

Deux hommes montent vers l’autel,
Cherchant le Dieu du Bien et du Mal.
L’un est pharisien, fier et droit,
L’autre publicain, pauvre en foi.

 

Le premier dresse au ciel sa voix :
« Dieu, je Te rends grâce et j’y crois,
Je ne suis pas comme ces pécheurs —
Voleurs, impurs, ni gens trompeurs.

 

Je jeûne deux fois chaque semaine,
Je donne à Toi ma dîme pleine. »
Ainsi parla, plein de vanité,
Priant soi‑même en sa fierté.

 

L’autre, au fond, n’ose approcher,
Ni lever les yeux vers la clarté.
Il se frappe au cœur, en pleurs :
« Ô Dieu, pitié de mon erreur ! »

 

Alors Jésus prit la parole :
« Cet humble‑là qu’on dit frivole,
Retourna chez lui justifié,
Le fier resta stérile, glacé.

 

Car qui s’élève sera perdu,
Mais l’humble sera reconnu. »
Ainsi la grâce à tous s’étend,
Par le cœur pur et le repentant.

 

Apprends‑moi, Seigneur, à prier,
Non par l’orgueil, mais la bonté.
Que mes silences, mes soupirs,
Soient d’amour simple, d’un vrai désir.

 

==

In English

 

The Pharisee and the Tax Collector

Two men went up to pray one day,
One proud in heart, one poor in way.
The Pharisee stood straight and tall,
And prayed to self — not God at all:

 

“O Lord, I thank You I’m not those
Who steal, who sin, whose dark heart grows.
I fast, I tithe, I keep the law,
Unlike that sinner that I saw.”

 

So went his words, so cold, so fine,
A perfect mask — a hollow shrine.
But far behind, with trembling frame,
A sinner knelt and breathed God’s name.

 

His eyes stayed low, he beat his breast:
“O God, have mercy — I’ve transgressed!
Forgive my sin, my soul unclean,
I am not worthy, yet between…

 

You and my tears stands but Your grace,
That stoops to lift my fallen face.”
Then Jesus said, “Now understand:
The humble leaves by mercy’s hand.

 

The proud returns without a gain,
His show of faith is all in vain.
For he who lifts himself shall fall,
But he who bows shall rise through all.”

 

O Lord of mercy, gentle, true,
Fashion in me a heart made new.
Not in my boast, but in my plea,
Let righteousness be born in me.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính ; còn người Pha-ri-sêu thì không.

 

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 18,9-14

9 Khi ấy, Đức Giê-su kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác : 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11 Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ 13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ 14 Tôi nói cho các ông biết : người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi ; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

 

==

27/10/2025

 

Thứ Hai Tuần XXX - Mùa Thường Niên

 

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 13,10-17

 

Ngày Sa-bát Giải Xiềng Xích

 

Người vào hội đường giảng dạy,
Một bà tội nghiệp, thân gầy mười tám năm.
Lưng còng, chẳng ngẩng nổi thân,
Đời trong bóng tối âm thầm khổ đau.

 

Chúa thương trông thấy từ lâu,
Ngài gọi: “Này nữ nhân, mau thoát rồi!”
Đặt tay, thân thẳng rạng ngời,
Bà liền cất tiếng tạ ơn Chúa Trời.

 

Trưởng đường tức tối thốt lời:
“Sáu ngày làm việc, đến thời mà xin,
Đừng mà chữa bệnh linh đình,
Ngày sa-bát thánh giữ gìn cho nghiêm.”

 

Chúa liền đáp tiếng uy nghiêm:
“Đạo đức giả hỡi, chẳng tìm lý chân!
Ngày sa-bát các ngươi hằng,
Cởi dây cho bò, dắt sang uống rồi.

 

Còn đây – con cháu Áp-ram,
Bị trói mười tám năm dài khổ đau,
Xiềng xích Xi-tan buộc sâu,
Há chẳng được cởi ngay đầu ngày thiêng?”

 

Nghe Người, kẻ chống hổ riêng,
Dân vui hoan hỷ, tỏa liền niềm tin.
Ơn thương lan xuống tâm linh,
Nâng bao tội lỗi hồi sinh cuộc đời.

 

Ai mang tật nặng chơi vơi,
Gặp tay Chúa chạm, sáng ngời bình an.
Ngày nào mở khóa xiềng oan,
Ngày ấy chan chứa muôn vàn hồng ân.

 

Xin cho con biết ân nhân,
Cúi mình đón Chúa – vẹn ngần sám nghiêm.
Trong con, xiềng xích tối tăm,
Xin Ngài cởi hết — hồi xuân đời này.

 

==

In  French:

 

Le Jour de la Délivrance

 

Un jour de sabbat, dans la maison sainte,
Jésus parlait, la foule écoutait.
Une femme, courbée depuis des années,
Sous le poids du mal, avançait, tremblante.

 

Dix‑huit ans de chaînes du malin,
Son dos fléchi, son regard éteint.
Le Christ la vit, l’appela près de Lui :
« Femme, tu es guérie, te voici ! »

 

Ses mains toucherent son front blessé,
Et soudain, droite, elle s’est dressée.
Sa bouche éclatait en louange,
Glorifiant Dieu pour Son échange.

 

Mais le chef du lieu, indigné,
Cria : « Qu’on guérisse d’autres jours !
Le sabbat n’est pas pour l’ardeur ;
Travaillez donc loin de ce jour. »

 

Alors le Seigneur répondit :
« Hypocrites ! qui donc aujourd’hui
Ne détache son bœuf, son âne enchaîné,
Pour qu’il boive aux sources du frais ?

 

Et cette femme, fille d’Abraham,
Liée par Satan tant d’années,
Ne serait‑elle, en jour sacré,
Digne d’être enfin sans trame ? »

 

Tous ses détracteurs furent honteux,
Et le peuple, rempli de feux,
Se réjouit des œuvres du Maître,
Des mains du Ciel venues renaître.

 

Seigneur, aujourd’hui comme hier,
Détache nos cœurs prisonniers.
Courbés sous l’ombre et la misère,
Fais‑nous redresser à Ta lumière.

 

==

In English

 

Set Free on the Sabbath

 

Inside the synagogue He taught,
And hearts with holy wonder caught.
A woman bent in pain and chain,
Eighteen long years of grief and strain.

 

Her back was curved, her spirit low,
No light of heaven’s face to know.
But Jesus saw — His heart was stirred,
He called to her, spoke healing’s word:

 

“Woman, you’re freed from all your pain,”
He touched her — life flowed through each vein.
She straightened tall, her praises rose,
Her lips sang joy that mercy knows.

 

Then anger burned within the hall,
The ruler cried before them all:
“Six days are set for human care,
But not God’s rest — don’t heal them there!”

 

The Lord replied with voice so clear,
“O hypocrites! How can you hear?
Each Sabbath, do you not untie
Your ox or donkey, lest it die?

 

And this, My daughter, bound so long,
Held under evil’s cruel wrong —
Should she not rise this holy day,
Unbound, renewed, and on her way?”

 

His foes grew silent, bowed in shame,
The crowd rejoiced, and blessed His name.
For in His word the heavens gleamed,
And all creation was redeemed.

 

O Lord who frees the soul confined,
Unbind the wounds within my mind.
Let Sabbath peace my heart restore,
Till I am bent with sin no more.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Chẳng lẽ người con cháu ông Áp-ra-ham này lại không được cởi xiềng xích trong ngày sa-bát sao ?

 

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 13,10-17

 

10 Khi ấy, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường. 11 Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. 12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo : “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền !” 13 Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.

14 Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng : “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát !” 15 Chúa đáp : “Những kẻ đạo đức giả kia ! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước ? 16 Còn bà này là con cháu ông Áp-ra-ham, bà ấy bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao ?” 17 Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.

 

==

28/10/2025

 

Thứ Ba Tuần XXX - Mùa Thường Niên

Ngày 28 tháng 10

THÁNH SI-MON VÀ THÁNH GIU-ĐA, TÔNG ĐỒ

lễ kính

 

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 6,12-19

 

Người Chọn Mười Hai

Đêm kia, Chúa bước lên đồi,
Lặng thinh cầu nguyện suốt thời canh khuya.
Tâm thân hướng Chúa Cha kia,
Ngài dâng thế giới muôn bề tối sâu

.

Tảng mai tỏa ánh nhiệm mầu,
Ngài kêu các kẻ trước sau đến gần.
Mười hai được chọn ân cần,
Gọi là Tông Đồ — sắt son niềm tin.

 

Phê-rô, đá tảng vững bền,
An-rê anh của, kế liền Gia-cô.
Gio-an, Phi-líp, Ba-tô,
Mát-thêu, Tô-ma – nối vô nguyện lòng.

 

Gia-cô-bê, con An-phê,
Si-môn Nhiệt Thành, lấy quê làm nền.
Giu-đa, con của Gia-cô,
Và một Giu-đa phản đồ sau đây.

 

Cùng đi xuống giữa đồng này,
Người giảng Tin Mừng tràn đầy quyền uy.
Từ Tia, Xi-đôn, ngàn khi,
Dân về đông đúc, khẩn khi nghe Lời.

 

Người chữa bệnh, kẻ tật lơi,
Ma ô uế cũng rụng rời, sợ run.
Người chạm, quyền lực tỏa luôn,
Lành bao thương tích, sáng muôn linh hồn.

 

Ơn Trời chan chứa sớm hôm,
Nơi Con của Chúa – tình dồn thế gian.
Ơn gọi Tông Đồ khai ban,
Từ đêm cầu nguyện, tới ngàn sứ thiêng.

 

Chúa ơi, xin chọn con hiền,
Để gieo Lời Thánh khắp miền nhân gian.
Xin cho tín nghĩa vững vàng,
Theo Thầy, phục vụ, ánh vàng niềm tin.

 

==

In  French:

 

L’Appel des Douze

Une nuit pleine d’étoiles en feu,
Jésus monta prier Son Dieu.
Longtemps, sur la montagne haute,
Il confiait l’homme à Sa faute.

 

À l’aube, le ciel s’ouvrit clair,
Il appela ceux du désert :
Douze choisis pour suivre en route,
Douze cœurs au creuset du doute.

 

Simon, nommé Pierre le fort,
Et son frère André du même port ;
Jacques et Jean, fils du tonnerre,
Philippe, Bartholomée, frère.

 

Matthieu, Thomas, Jacques encor,
Fils d’Alphée, puis Simon ardent,
Jude, fils de Jacques au nord,
Et Judas, traître hésitant.

 

Avec les Douze Il descendit,
Là, sur la plaine, la foule accourut.
De Judée, de Tyr et de Sidon,
Tous cherchaient vie, tous cherchaient don.

 

Les malades reçurent lumière,
Les possédés quittèrent l’enfer ;
Car du Seigneur sortait la force,
Qui purifiait, qui réparait la source.

 

Et tout le peuple glorifia
Le Dieu vivant qui ressuscita.
Du haut des mains du Fils humain
Rayonnait l’amour sans fin.

 

Seigneur, choisis‑nous encore,
Pour servir humblement, sans or.
Fais de nos nuits des monts de foi,
Et de nos jours des pas vers Toi.

 

==

In English

 

He Chose the Twelve

One silent night upon the height,
The Savior prayed through sacred night.
Alone with God, His Father dear,
He poured His soul in love sincere.

 

When morning broke with dawning grace,
He called His friends to meet His face.
From many hearts He chose but few —
Twelve souls to make the world anew.

 

Peter, the rock, with Andrew near,
James and John with faith so clear.
Philip, Bartholomew, and more,
Matthew, Thomas — hearts to soar.

 

James, son of Alphaeus, known by name,
Simon the Zealot, aflame;
Jude, son of James with steadfast care,
And Judas — shadowed in despair.

 

Then down He came where plains were wide,
And multitudes pressed side by side:
From Tyre, from Sidon, from Judea’s land,
They sought to touch His healing hand.

 

The sick were cured, the lame arose,
Foul spirits fled, their power froze.
For from His being virtue came,
And every soul praised God’s great name.

 

O Christ who prays through every dawn,
Your call still echoes, ages on.
Choose us, disciple hearts today,
To walk Your truth, to show Your way.

 

Let faith like theirs in us remain,
Through joy, through cross, through loss and gain.
That from Your heart our lives may prove,
The healing power of endless love.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Đức Giê-su chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ.

 

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 6,12-19

 

12 Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. 13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. 14 Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông ; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, 15 Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Nhiệt Thành, 16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.

17 Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn 18 đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành. 19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.

 

==

 

29/10/2025

 

Thứ Tư Tuần XXX - Mùa Thường Niên

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 13,22-30

 

Bàn Tiệc Nước Trời

 

Khi đi qua khắp phố phường,
Giê-su giảng dạy, tình thương khôn dò.
Có người hỏi Chúa khi đó:
“Lạy Thầy, được cứu thật là ít sao?”

 

Người rằng: “Hãy bước qua mau,
Cửa hẹp mà sống, kẻ nào tín tâm.
Bao người tìm lối an thầm,
Nhưng rồi chẳng thể vượt tầm cửa đây.

 

Khi chủ nhà khóa lối này,
Các ngươi đứng cả chốn ngoài kêu van:
‘Xin cho mở cửa thiên bàn!’
Nhưng ông đáp lại: ‘Không ngàn biết ai!

 

Các ngươi từ lạ đâu đây?
Cút đi cho khuất, lòng này chẳng quen!’
Các ngươi nói: ‘Ở cạnh bên,
Chúng tôi nghe giảng, dự nên bữa Người!’

 

Nhưng rồi chủ đáp ngàn lời:
‘Chẳng hề biết các ngươi nơi nào về.
Làm điều bất chính ê chề,
Cút đi, kẻ dữ, chẳng hề được qua!’

 

Bấy giờ nước mắt chan hòa,
Thấy Abraham, thấy Cha Giacóp,
Cùng bao ngôn sứ, tỏa khắp,
Vào trong Nước Chúa – muôn khắp hiện vinh.

 

Còn ngươi đứng khóc thất kinh,
Ngoài nơi tăm tối, quẩn quanh nẻo mờ.
Bốn phương: đông, tây, nam, bắc,
Sẽ đến ăn tiệc rực Nước Thiên Đàng.

 

Có người đứng trước hàng hàng,
Sẽ lui xuống chót, lỡ làng ơn thiêng.
Có người sau chót bình yên,
Sẽ nên đứng trước triền miên sáng ngời

.

Chúa mời qua cửa nhỏ thôi,
Nhỏ nhưng mở tới Cõi Trời bao la.
Ai khiêm tốn, sống thật thà,
Sẽ vào tiệc Thánh, chan hòa Thánh ân.

 

Xin cho con bước chân trần,
Qua cửa hẹp Chúa ân cần dắt đi.
Bốn phương thiên hạ quy y,
Cùng nhau dự tiệc – khắc ghi muôn đời.

 

==

In  French:

 

Le Festin du Royaume

 

Sur les routes montant vers la ville,
Jésus parlait d’une voix tranquille.
Quelqu’un demanda, plein de doute :
« Seigneur, peu seront‑ils sur Ta route ? »

 

Il répondit : « Luttez, luttez,
Pour franchir la porte étroite.
Beaucoup viendront frapper, crier,
Mais quand elle ferme, tout s’arrête.

 

Le maître dira : “Qui donc êtes‑vous ?
Je ne sais d’où viennent vos pas.”
Et vous direz : “Nous étions chez toi,
Nous avons mangé, bu, sous ta loi.”

 

Mais Il répondra : “Éloignez‑vous,
Ouvriers du mal, dans l’ombre et l’oubli.”

Là seront pleurs et cris perdus,
Voyant Abraham et les justes élus.

 

Eux, assis dans le Royaume de Dieu,
Tandis que dehors vous serez vieux,

Brisés de regret et de peur,
D’avoir fermé vos cœurs au Sauveur.

 

Mais d’Orient, d’Occident, du Nord, du Sud,
Viendront les invités du salut.

Tous prendront place au grand festin,
Où la lumière ne connaît fin.

 

Car les derniers deviendront premiers,
Et les premiers, soudain derniers.

Ainsi s’inverse la gloire humaine,
Quand Dieu relève les cœurs en peine.

 

Seigneur, ouvre en moi cette porte,

Fais‑moi passer vivant la mort.
Que ma foi veille au jour profond,
Et m’invite à Ton saint feston.

 

==

In English

 

The Banquet of God’s Kingdom

 

Along His way to Zion’s hill,
Christ taught the crowds with patient will.
Someone asked, “Lord, will few be saved?”
He turned and spoke — His voice was grave:

 

“Strive hard to enter through the door
So narrow none may boast before.
For many seek, yet lost they stand,
Locked out by their own hardened hand.

 

When once the Master shuts the gate,
Too late your pleading meets your fate.
You cry, ‘O Lord, we walked with You,
We ate, we heard Your teaching true!’

 

But He shall answer, firm and plain,
‘I know you not — depart in shame!
Depart, you workers far from right,
Whose hearts denied My living light!’

 

Then anguish tears the midnight air,
As Abraham and saints are there —
Isaac and Jacob, prophets old,
At feast within the house of gold.

 

But far outside, in grief and fear,
The proud who would not persevere.
Yet from the East and West they’ll come,
From North, from South — all hearts as one.

 

They’ll sit in peace, at table blessed,
Their souls at home, their labor rest.
For many first will be made last,
And last brought forward unsurpassed.

 

O Lord, the Gate, the Way, the Bread,
Through You the hungry ones are fed.
Teach me the path, though steep and small,
To share Your feast that welcomes all.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa

.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 13,22-30

 

22 Khi ấy, trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23 Có kẻ hỏi Người : “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : 24 “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

25 “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói : ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào !’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26 Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ 27 Nhưng ông sẽ đáp lại : ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !’

28 “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29 Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

30 “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

 

==

30/10/2025

 

Thứ Năm  Tuần XXX - Mùa Thường Niên

 

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 13,31-35

 

Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem!

 

Có người đến thưa khẩn cầu:
“Ngài đi, kẻo Hê-rô-đê hòng giết thôi!”
Người rằng: “Cứ đến, nói lời,
Với con cáo ấy, Ta thời hoàn loan.

 

Hôm nay, chữa bệnh diệt oan,
Ngày mai, trừ quỷ, lan tràn ánh thiêng.
Rồi ngày thứ ba vẹn nguyên,
Công trình hoàn tất, tình xuyên cõi lòng.

 

Ta đi, ta vẫn cứ mong,
Hôm nay, mai nữa, đường trông chẳng nề.
Vì đâu ngôn sứ chẳng hề,
Chết ngoài Giê-ru-sa-lem kia bao giờ!”

 

Người than: “Giê-ru-sa-lem ơi!
Ngươi giết ngôn sứ, dập vời những ai,
Được Cha sai đến bên Ngài,
Ngươi đâu có chịu một ngày lắng nghe.

 

Bao phen Ta muốn chở che,
Tập con ngươi lại dưới che cánh gà,
Như gà mẹ ấp con ta,
Mà ngươi khước bỏ, lạnh nhòa xác xơ.

 

Nhà ngươi, bỏ mặc bơ phờ,
Không còn Thiên Chúa đợi chờ giữa sân.
Và rồi đến lúc ân cần,
Ngươi sẽ cất tiếng tôn vinh rạng ngời.

 

Chúc tụng Đấng đến muôn đời,
Nhân danh Thiên Chúa rạng soi thế trần!”
Lời Thầy tan giữa chiều ngân,
Thương cho thành cũ, ngút ngàn tội sâu.

 

Giê-ru-sa-lem – thành đau,
Nơi Thầy ngã xuống, nhiệm mầu phục sinh.
Tình Cha phủ lấp tội tình,
Gọi con về lại ân linh muôn đời.

 

==

In  French:

 

Jérusalem, Jérusalem !

 

Les pharisiens vinrent parler :
« Pars d’ici, Hérode veut te tuer ! »
Mais Jésus dit : « Allez lui dire :
Je chasse les démons, j’inspire,

 

Je guéris aujourd’hui, demain,
Et le troisième jour tout prend fin.
Pourtant il faut que j’aille encore,
Car nul prophète ne meurt dehors.

 

Hors de Jérusalem, point de croix,
C’est là que s’accomplit le Roi. »
Puis Sa voix tremble d’un amour fou :
« Ô Jérusalem, que t’ai‑je fait, dis‑moi ?

 

Toi qui tues ceux que Dieu t’envoie,
Et lapides les cœurs de foi !
Combien de fois j’ai voulu tendre
Mes bras, comme une mère aimante,

 

Rassembler sous mes ailes chaudes
Tes fils perdus, tes âmes fautes.
Mais toi, tu n’as pas consenti ;
Ton cœur s’est durci, endurci.

 

Ta maison reste vide et froide,
Ton chant s’éteint dans la nuit noire.
Tu ne me verras plus, mon peuple,
Jusqu’au temps de joie qui se lève,

 

Quand tu diras, d’une voix pure :
“Béni soit Celui qui vient sûr,
Au nom du Seigneur, plein de gloire !”
Alors s’ouvrira ta victoire.

 

==

In English

 

Jerusalem, Jerusalem!

 

Some Pharisees came and warned in dread,
“Leave this place — Herod seeks your head!”
But Jesus said, “Go tell that fox,
I cast out demons, break their locks.

 

Today, tomorrow, still I heal,
My Father’s will I must fulfill.
The third day, all shall be complete —
The work of love, the Cross, the feat.

 

Yet I must journey, day by day,
No prophet dies another way.
For where but in Jerusalem’s walls
Should heaven’s Truth be brought and fall?”

 

Then weeping broke the Master’s tone:
“Jerusalem — My very own!
You stone the ones whom God has sent,
Each messenger in blood was spent.

 

How many times I longed to be
A hen that hides her brood with Thee.
I spread My wings in tender care,
But you refused My mercy there.

 

Behold, your house is left forlorn,
An empty gate, a temple torn.
You will not see My face again,
Until you bless My holy name —

 

‘Blest is He who comes,’ you’ll cry,
‘In the Lord’s Name,’ beneath the sky.”

 

Through tears He gazed, yet still He bore
The city’s sin, the world’s great war.

For love must die where hate still thrives,
To open heaven, to save all lives.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được.

 

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 13,31-35

 

31 Khi ấy, tại Giê-ru-sa-lem, có mấy người Pha-ri-sêu đến thưa Đức Giê-su rằng : “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê đang muốn giết ông !” 32 Người bảo họ : “Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này : ‘Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33 Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được.’

34 “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 35 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay : các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói : Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !”

 

 

==

31/10/2025

 

Thứ Sáu Tuần XXX - Mùa Thường Niên

 

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,1-6

 

Lòng Thương Ngày Sa-bát

Một ngày sa-bát sáng trong,
Người vào nhà một thủ phong Pha-ri-sêu.
Họ ngồi dò xét từng điều,
Mắt soi từng cử, lòng xiêu nghi tình.

Trước Người, bệnh nặng phù sinh,
Thân sưng tội phận, tanh bình đau thương.
Chúa nhìn, hỏi khắp bốn phương:
“Ngày sa-bát có chữa thường được chăng?”

Mọi người lặng lẽ im băng,
Không ai dám nói một rằng hay sai.
Chúa liền đỡ bệnh trong tay,
Chữa xong, cho về – lòng đầy xót thương.

Ngài nói: “Giả thử trong đường,
Con ngươi hay bò sa vườn giếng sâu,
Ngày sa-bát chẳng kéo mau,
Để mà cứu sống, mặc sầu nhân gian?”

Lời vừa phán, lặng ngỡ ngàng,
Ai nghe cũng thấy rỡ ràng lòng nhân.
Vì yêu vượt cả luật trần,
Chân lý tỏa sáng, ân ân đất trời.

Người là Chúa của muôn đời,
Của ngày sa-bát – rạng ngời tình sâu.
Không vì hình thức khô khâu,
Mà quên cứu sống – tâm cầu nở hoa.

Xin cho con biết thứ tha,
Như Cha thương xót bao la muôn phần.
Ngày nào giữ luật gian truân,
Cũng nên trọn nghĩa tình nhân – hết mình.

 

==

In  French:

 

Le Sabbat de Miséricorde

 

Un jour de sabbat, dans la maison,
D’un chef pharisien, sous les leçons,
Jésus s’assied, observé d’yeux,
Cherchant piège en son dessein pieux.

 

Là, devant Lui, un homme en peine,
Le corps gonflé, la chair enchaîne.
Jésus demanda d’une voix claire :
« Au sabbat, guérir : est‑ce contraire ? »

 

Tous gardèrent leurs lèvres closes,
N’osant répondre à la parole.
Alors le Maître, plein de grâce,
Tendit la main, la vie s’enlace.

 

Guéri l’homme rentre joyeux,
Louant son Dieu parmi les cieux.
Jésus poursuit, devant l’assemblée :
« Dites‑moi, fils d’homme, répondez :

 

Si votre enfant ou un bœuf cher
Tombe un sabbat dans un puits amer,
N’irez‑vous pas, sans hésiter,
Le délivrer, le sauver ? »

 

Silence lourd remplit la salle,
Nul ne réplique, nul ne parle.
Car l’Amour seul tient la mesure,
Des lois de Dieu, des lois plus pures

.

Le vrai sabbat n’est pas repos,
Mais cœur ouvert pour le plus sot.
C’est jour d’amour, de renaissance,
Où Dieu se fait la délivrance.

 

==

In English

 

Mercy on the Sabbath

 

One Sabbath day, within a hall,
A Pharisee had bid Him call.
They watched His steps with cautious eyes,
Testing truth in holy guise.

 

Before Him stood a man in pain,
His swollen body bound in chain.
Jesus, moved with pity’s breath,
Spoke life beneath the law of death.

 

He asked them all, “Now tell Me true —
The Sabbath—may one heal or do?”
But silent hearts refused reply,
Their pride a wall against the sky.

 

He touched the man, his sickness fled,
He walked restored, with light instead.
Then calmly Christ gave judgment fair:
“Which one of you, if fallen there,

 

Your child or ox in well of stone,
Would not lift out his flesh and bone?
Would you not save, without delay,
Though Sabbath’s law forbade the way?”

 

Their lips were still, their minds undone,
For Love had shown what law begun.
The Hand of God, through mercy’s art,
Revealed the Sabbath’s truest heart.

 

No rule is higher than compassion,
No day too sacred for salvation.
For where love heals, the Lord is near —
The Sabbath lives when hearts are clear.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát ?

 

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,1-6

 

1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa : họ cố dò xét Người. 2 Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng. 3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu : “Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không ?” 4 Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5 Rồi Người nói với họ : “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát ?” 6 Và họ không thể đáp lại những lời đó.

 

==

1/11/2025

 

Thứ Bảy  Tuần XXX - Mùa Thường Niên

Lễ Các Thánh Nam Nữ

 

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 5, 1-12a

 

Tám Mối Phúc Thật

 

Người lên đỉnh núi trời xanh,
Nhìn đoàn dân chúng, lòng thanh chan hòa.
Người ngồi, môn đệ bước ra,
Nghe lời Thiên Chúa phôi pha dịu hiền.

 

Phúc cho kẻ sống nghèo tin,
Tinh thần khó tớ trong quyền Chúa thôi.
Vì Nước Trời chính của người,
Kho tàng vĩnh cửu chẳng rơi phai mờ.

 

Phúc cho hiền hậu, dại khờ,
Sẽ được Đất Hứa ban cho làm phần.
Phúc cho ai khóc thương nhân,
Vì được Thiên Chúa an phần vỗ yên.

 

Phúc ai khao khát công minh,
Sẽ được no thỏa tịnh sinh an bình.
Phúc ai thương xót chân tình,
Sẽ được xót lại ân linh muôn phần.

 

Phúc cho lòng sạch trong ngần,
Sẽ nhìn thấy Chúa vô ngần ánh quang.
Phúc cho người thuận hòa mang,
Sẽ được gọi “con Thiên Đàng Tối Cao”.

 

Phúc cho ai chịu khổ đau,
Vì sống công chính tâm đầu chẳng phai.
Nước Trời mở cửa trên ngai,
Đón bao chứng nhân từng dài đường trông.

 

Phúc cho ai giữa thế hồng,
Bị người ghét bỏ, bạo công hại mình,
Hãy vui lên giữa hành trình,
Phần công thưởng lớn — quang minh cõi trời.

 

Lạy Cha, xin khiến tim đời,
Yêu đường phúc thật rạng ngời niềm tin.
Giữa trần gian lắm phong trần,
Xin cho con sống trung trinh phúc này.

 

==

In  French:

 

Les Béatitudes

 

Sur la montagne aux vents paisibles,
Jésus s’assit, son regard lisible.
Ses disciples, tout près, montaient,
Et la Parole alors naissait :

 

Heureux les pauvres dans l’esprit,
Leur cœur reçoit le Paradis.
Heureux les doux, les humbles terres,
Ils posséderont la lumière.

 

Heureux ceux qui pleurent, blessés,
Car Dieu viendra les caresser.
Heureux les cœurs pleins de justice,
Ils seront rassasiés, complices.

 

Heureux les cœurs miséricordieux,
Ils connaîtront pitié de Dieu.
Heureux les âmes pures et claires,
Elles verront Dieu face à face, lumière.

 

Heureux les artisans d’unité,
Ils seront fils de Vérité.
Heureux les justes persécutés,
Le Ciel pour eux est accordé.

 

Heureux encore, ô mes amis,
Quand le monde vous maudit,
Quand il calomnie votre foi,
Pour moi, pour l’amour de ma Croix.

 

Réjouissez‑vous, chantez plus haut,
Car grand est votre don nouveau !
Dieu voit les blessures cachées,
Et les transfigure en beauté.

 

==

In English

 

The Beatitudes

 

Upon the hill in morning’s glow,
The Savior spoke, and hearts did bow.
The crowd drew close, His voice was still,
And heaven trembled on the hill.

 

Blest are the poor in heart and mind,
For Heaven’s kingdom they shall find.
Blest are the gentle, calm and kind,
The earth their heritage assigned.

 

Blest are the souls that mourn and weep,
For God His promise true will keep.
Blest are the ones who hunger strong
For truth and justice, right not wrong.

 

Blest are the hearts that mercy give,
For mercy they in turn shall live.
Blest are the pure, with vision clear,
For they shall see God’s glory near.

 

Blest are the peacemakers who bring
God’s children close beneath His wing.
Blest those who suffer loss and strife
For righteousness — they gain true life.

 

And blest are you, when men despise,
When lies and hatred cloud your skies.
Rejoice, lift up your hearts and sing,
Great is your crown — your Lord is King

!

Through tears of faith and trials long,
The meek inherit joy and song.
For every heart that loves and bears
Shall dwell with God — beyond all cares

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

 

✠Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.  .   Mt 5, 1-12a

 

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

 

Danh mục:
Tác giả: