BÀI LỜI CHÚA 76
Phép Rửa tội - Tái sinh
Trích Tin Mừng Gioan 3.1-5
Ở Yêrusalem có một cụ già thông thái, quí hiệu là Nicôđêmô. Cụ có chân trong nhóm Biệt phái và là nghị viên trong Thượng Nghị Viện Do thái. Cụ đã từng nghe nhiều về Giêsu Nadarét, nhưng là người thận trọng, cụ ít tin vào những truyện phép mầu. Tuy nhiên, những phép lạ của Nhà tiên tri trẻ tuổi thành Nadarét càng ngày càng được dân chúng đồn vang dậy khắp nơi. Cụ muốn đến gặp tận mặt để hỏi cho rõ. Một đêm đẹp trời, cụ đi tìm Đức Giêsu để được hiểu về đạo lý của Ngài, sợ ban ngày sẽ lộ truyện, các bạn đồng nghiẹp nghi ngờ cụ chạy theo cái mới lạ, nên cụ đến ban đêm, vả lại, ban đêm thường là cho câu chuyện thêm thân mật. Gặp Đức Giêsu, cụ mở đầu câu chuyện cách khiêm tốn :
- Thưa Thày, Thày quả là Người của Chúa, vì không ai làm được những phép lạ như Thày, trừ phi là có Thiên Chúa ở với.
Thấy cụ thẳng thắn, Đức Giêsu đi thẳng vào vấn đề :
- Để vào được Nước Thiên Chúa mà tôi rao báo, phải giữ một điều kiện là phải tái sinh.
Cụ Nicôđêmô mỉm cười bỡ ngỡ :
- Thế nào ? Phải tái sinh ? Ngần này tuổi như tôi mà phải vào bụng mẹ để sinh lại ư ?
Đức Giêsu đáp :
- Thế đấy ! Ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải sinh lại cả. Song ông chớ lầm ! Việc sinh lại đây là sinh bởi Chúa Thánh Thần và bằng nước. Vì nếu người ta vào bụng mẹ mà sinh ra, thì đó chỉ là chuyện thuộc phạm vi xác thịt, phạm vi sức lực tự nhiên loài người ; người ấy có sinh cả 100 lần ra lại cách như thế, cũng chỉ lặp lại lần sinh trước, có gì hơn đâu. Còn đây là sự sinh ra bởi bên trên, bởi Thiên Chúa làm, bằng sức lực của Chúa Thánh Thần, thì người sinh lại lần nữa mới trở nên giống Thiên Chúa, có Thần Khí Thiên Chúa, có sự sống Thiên Chúa, ông hiểu được chưa ?
Ông Nicôđêmô cúi đầu ngẫm nghĩ trước một điều quá ư mới mẻ, lạ lùng. Đức Giêsu giúp ông :
- Ông bỡ ngỡ ư ?... Ông có nghe làn gió thoảng qua không ? Đó là một ví dụ cho ông dễ hiểu. Kìa làn gió ấy thổi đi đâu ông có biết không ? Nó xuất phát từ đâu, ông cũng không rõ, song nghe tiếng. Thế thì người sinh ra bởi Thần Khí cũng vậy. Cuộc tái sinh bởi Chúa Thánh Thần làm trong tâm hồn người ta cách thiêng liêng cũng vậy, không ai xem thấy, không biết bắt đầu từ đâu, rồi đi đến đâu, nhưng công hiệu của nó thì người ta vẫn cảm nghiệm được.
Cụ già ngẩng đầu lên. Cụ có vẻ đã hiểu được phần nào :
- A ! Quả thật việc tái sinh là như thế ư ?
Đức Giêsu tiếp lời :
- Chính vậy ! Ông là tiến sĩ trong dân mà không hiểu ư ? Nếu ta nói những chuyện xảy ra dưới đất mà ông không tin, đến lúc Ta nói về những sự trên trời, ông sẽ tin sao được ?
* Đó là Lời Chúa ! - Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Cụ Nicôđêmô là người thuộc đạo cũ, không hiểu việc tái sinh cũng còn được đi. Chúng ta đây, người Kitô hữu, chúng ta có hiểu không ? Chưa chắc. Tệ hơn, có lẽ ta cũng chẳng để ý tìm hiểu nó nữa kia. Có người trong chúng ta có khi mới nghe nói tái sinh lần này là lần đầu cũng chưa biết chừng ! Ôi ! Chúa chúng ta sẽ nghĩ sao về chúng ta ? Từ trước đến nay, ta sống cái gì ? tư cách nào ?
+ Tại sao có tình trạng trên ?
Một trong những lý do chính là tại các người dạy giáo lý hoặc giảng dạy cho ta không nói về vấn đề ấy. Họ thường nói về phép rửa tội. Thế là chúng ta đâm ra coi đó như một lễ nghi, một tục lệ, làm một lần thế là xong ! Người thì cử hành lễ nghi ấy lúc nhỏ tí ti, mới sinh ra ; người khác lúc lớn, học đạo và chịu phép rửa tội như là một lễ nghi kết thúc kỳ học đạo. Lễ nghi xong, ta thở phào nhẹ nhõm, từ nay, ta sống sao kệ ta, chỉ cần đi dự lễ, đọc kinh, có tội thì xưng... Nghĩ như thế, thật là tai hại..., chẳng khác gì coi Phép Rửa như một cái vé, vào đến cửa rạp, đưa cho người soát vé, họ cầm lấy coi rồi xé ngang, cho phép ta được vào rạp, thế là xong, chiếc vé ấy chỉ còn việc nhét vào túi hay vứt vào sọt rác : thủ tục đã xong !
+ Nhưng nếu như bài Phúc Âm ta đọc trên đây, chính Đức Giêsu dạy cho ta rằng đó là một việc sinh ra, chứ không hề bảo đó là một lễ nghi, thì ta nghĩ sao ? Có ai coi việc sinh ra là một lễ nghi đâu ? Ta cứ nghĩ đến một đứa trẻ vừa sinh ra, hoàn toàn đó không phải một lễ nghi hay thủ tục, làm xong là thôi. Trái lại, nó là một biến cố độc nhất : một con người sinh ra, một con người mới được ra ánh sáng mặt trời. Đó là một cuộc sống bắt đầu, và từ phút giây đó nó phát triển, nó là một sự sống, nó bắt đầu một cuộc đời... cứ phát triển mãi cho đến ngày thành nhân, vĩ nhân, anh hùng... Không phải chúng tôi sẽ khuyên anh chị em nên thay đổi cách nghĩ đâu, vì đã rõ : đây chính là lời dạy của Chúa chúng ta : phải tái sinh mới vào Nước Trời. Chúa không bảo đây là một lễ nghi, một thủ tục ; song bảo : đây là một cuộc sinh ra thiêng liêng và bắt đầu một cuộc sống : chúng ta mỗi người sinh lại cách bí nhiệm bởi Chúa Thánh Thần, và từ nay, ta tiếp tục phát triển lớn lên, thành nhân..., trưởng thành trước Chúa.
+ Chúng ta thử diễn tả việc tái sinh ấy bằng hình ảnh giọt máu. Người ta thường nói : “Thằng X. là giọt máu của ông đó!” Đúng thế, con cái là do một giọt máu của cha mẹ truyền vào chúng. Cứ thử máu là biết. Thì đây, khi Thiên Chúa sinh ta lại, để từ nay, ta thực là con cái Thiên Chúa, Người cũng truyền vào ta một giọt máu. Giọt máu ấy ví như là Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa ban xuống trong ta, thế là ta có cùng một máu với Thiên Chúa, có Thần Khí của Thiên Chúa. Vì bản tính của “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4.24). Người lấy chút Thần Khí của Người truyền sang cho ta. Vậy khi Thiên Chúa thấy ai có máu Người, mới nhận họ làm con cái, và cho họ được vào ở nhà Người. Vì thế, Đức Giêsu nói : “Phải tái sinh bởi Thiên Chúa mới vào được Nước Trời”, vì Nước Trời là nhà của Thiên Chúa.
Hình ảnh giọt máu này không xa sự thật lắm đâu ! Ta hãy nghe Thánh Kinh nói : “Phàm ai sinh bởi Thiên Chúa thì không làm sự tội, vì mầm giống của Người lưu lại trong kẻ ấy” (Thư 1 Ga 3.9). Nhưng nhà chú giải cắt nghĩa : mầm giống ấy là Chúa Thánh Thần : trên kia, ta ví Chúa Thánh Thần như giọt máu, ở đây, Kinh Thánh nói Ngài là mầm giống, chẳng phải gần giống nhau sao ?
+ Thiên Chúa nhét mầm giống Thánh Thần, hoặc nói cách hình bóng, Thiên Chúa truyền giọt máu Thánh Thần xuống cho ta hồi nào ? Xin hãy nghe lời Kinh Thánh : “Bởi vì Thiên Chúa coi anh em là con cái, thì Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Chúa Giêsu, Con Người đến trong lòng anh em, Thần Khí lúc ấy kêu lên : Abba ! Cha ơi ! Lạy Cha của con” (Thư Galát 4.6). Việc truyền máu ấy xảy ra hồi ta nghe giảng dạy về Chúa Giêsu và ta đáp lại bằng lòng tin, thế là Thiên Chúa nhận ta làm con, bằng cách truyền giọt máu Thần Khí xuống trong lòng ta. Rồi Phép Rửa đến đóng dấu chứng nhận. Nhờ đó, ta mới có phép xưng hô với Thiên Chúa : Lạy Cha, Cha ơi, Cha của chúng con ! Và đáp lại, Thiên Chúa sẽ gọi : Con là con Cha !
Điều này, không đạo nào có thể ban được. Do đó, đừng ai trong chúng ta dại mồm dại miệng nói : đạo nào cũng như đạo nào, vì đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Không đúng ! Có đạo nào làm cho các tín đồ nên con cái Chúa đâu, trừ đạo Chúa ? Vả lại, có bao giờ Phật bảo họ là con Phật đâu ? Nếu họ tự nhận là Phật tử, thì chỉ là một cách nói ví von thôi, và họ chỉ là đệ tử Phật, chứ không nghe miệng Đức Phật nói họ là con cái bao giờ. Mà cũng không nghe Phật dạy họ gọi ông ấy là cha họ cả. (Sau này, Phật giáo nói: trong con người ai cũng có Phật tánh..., đó là điều người ta thêm vào sau).
Còn chúng ta thì Thánh Kinh nói rõ : “Hãy coi, Thiên Chúa yêu thương chúng ta chừng nào : Người ban cho ta được gọi là con cái Thiên Chúa, - và thực là thế - hiện giờ, ta là con cái Thiên Chúa, cái đó sẽ ra sao, thì chưa được tỏ hiện, nhưng ta biết rằng : một khi Ngài tỏ hiện, thì ta được giống như Ngài” (Thư 1 Ga 3.1-2).
+ Thế là ta được sinh ra trong đời làm con Thiên Chúa. Có thể nói lần tái sinh này mới là sinh ra thật của ta, vì sinh lại cách bí nhiệm là sinh ra để sống và sống đời đời, còn những kẻ chỉ sinh ra bằng bụng mẹ thôi là sinh ra để rồi chết. Vì không có Chúa Thánh Thần là giọt máu, là sự sống Thiên Chúa, thì không vào được Nước Trời hằng sống. Mà không vào Nước Trời là rơi vào tối tăm, vào sự chết đời đời. Vì thế, ta có thể nói tái sinh mới là sinh ra thật, sinh ra để mà sống. Từ nay, ta là con của Thiên Chúa hơn là con của cha mẹ ta. Ta có một tên mới, đó là tên thánh, có cha mẹ mới là Thiên Chúa, có anh em mới là các thiên thần, các thánh, các tín hữu, và trước hết là Đức Giêsu mà Kinh Thánh gọi là “Trưởng Tử của một đoàn em đông đúc” (Rm), có một quê hương mới vĩnh cửu là Nước Trời.
+ Những ai không có giọt máu Thiên Chúa, không được vào Nước Trời. Đến cửa thiên đàng khám không thấy có, thử máu không thấy có, thì đi chỗ khác chơi. Thánh Gioan (8.35) nói : “Con mới được ở lại trong nhà mãi mãi”. Những người các đạo khác họ lầm to, khi họ tưởng cứ tụng kinh, ăn chay trường, tu thân tích đức là lên thiên đường, lên cõi cực lạc trường sinh. Lầm to và mất công toi. Bao công khổ tu, ăn chay, tụng niệm, có khi suốt đời, thành vô ích. Vì Chúa Giêsu xác định rõ : Có tái sinh mới vào Nước Trường sinh.
Một lần kia, trong một nhóm chia sẻ lời Chúa, một thiếu nữ công giáo nghe nói đến đây, tròn xoe mắt ngạc nhiên và hỏi : “Thế sao ? Con tưởng họ có công tu thân luyện tánh, ăn chay, tụng niệm, từ bi hỉ xả, thì họ cũng được Chúa cho lên thiên đàng chứ ?”. Chúng tôi phải mất công lắm mới làm cho cô ấy hiểu được rằng : các nỗ lực tu thân luyện tánh kia không đủ để vào Nước Trời. Đức Giêsu nói rõ : “Phải tái sinh mới được vào”. Ông Nicôđêmô trong bài Kinh Thánh trên đây chẳng đạo đức siêu đẳng ư ? Ông thuộc nhóm Biệt phái, tức cũng ví như các tu sĩ bây giờ : cầu nguyện ngày ba lần, ăn chay tuần hai lần, giữ 10 điều răn không trách cứ vào đâu được, làm phúc bố thí... và còn nhiều điều phúc đức nữa, không kể hết ra đây được. Mà khi đến hỏi Đức Giêsu, Ngài trả lời không đủ, phải tái sinh. Ông ấy còn là tiến sĩ dạy người ta về đạo, ông là người nhân đức và thông thái đến nỗi được chọn vào Thượng nghị viện là Hội đồng tối cao của Israen... Thử hỏi : ngay chúng ta đây, và ngay cả các tu sĩ, linh mục của ta, xét nguyên về mặt tu thân tích đức, dễ mấy ai bằng ? Thế mà Chúa dạy không đủ đấy, phải tái sinh. Huống chi mấy người các đạo khác. Tại sao vậy ? Vì lẽ đơn giản mà trên kia ta đã nói : tái sinh là Thiên Chúa ban Thánh Thần, làm cho người ấy có Thần Khí Thiên Chúa ví như có giọt máu của Chúa, làm con Chúa, mà làm con thì mới được vào nhà của Chúa, ở với Chúa, hưởng gia tài của Chúa ! Chúng ta thử lấy một ví dụ : Nếu có đứa trẻ nào cầu bơ cầu bất đến trước cửa nhà anh chị em, nó nói : Tôi có tập võ giỏi, tôi học hành chăm chỉ, tôi ngoan, tôi tốt, rồi nó nói : vậy ông bà phải cho tôi vào ở trong nhà ông bà ! Anh chị em có cho không ? Anh chị em lại chẳng trả lời nó rằng : Con có mọi đức tính ấy thì quí lắm, song con không có giọt máu của chúng ta, con đâu có phải là con mà đòi vào ở với chúng ta, rồi đòi phải chia gia tài cho con thừa kế ư ? Đâu có được ! Không phải con chúng ta thì con vô nhà bố mẹ con mà ở ! Thế đó ! Chúa cũng nói với các người không có đạo, hoặc người các đạo khác như vậy.
Thế còn đối với chúng ta, theo danh nghĩa là Kitô hữu, có đạo thì sao ? Phải phân biệt : Kitô hữu thật và giả ! Có người chỉ là Kitô hữu bởi danh nghĩa chứ thực không là thế. Làm sao biết được ? Biết được chứ ! Đức Giêsu đã nói cách biết trong bài Tin Mừng trên kia : Gió từ đâu tới, sẽ đi đâu, ta không biết, vì là chuyện mắt thường không thấy, nhưng ta nghe được tiếng nó, thì người sinh ra bởi Thần Khí cũng vậy: Cuộc tái sinh thiêng liêng Chúa Thánh Thần làm thì người ta không thấy, nhưng công hiệu của nó, hậu quả của nó thì người ta vẫn có thể nghiệm thấy được. Nó tỏ ra trong đời sống, trong hạnh kiểm, trong cử chỉ, trong lời ăn tiếng nói, trong mọi hoàn cảnh. Những Kitô hữu nào đích thật, tức là đã được tái sinh, thì đời sống và hạnh kiểm họ bày tỏ ra, họ sống xứng đáng như con cái Thiên Chúa, tốt lành, bình an, yêu thương, tiết độ, hiền từ... như Cha mình là Thiên Chúa : “Các con hãy nên trọn lành giống cha các con trên trời”. Còn các Kitô hữu giả thì chỉ chịu phép Rửa như một thủ tục, một lễ nghi, chứ không tái sinh, không là con Chúa, nên đời sống họ bày tỏ ra toàn những tính hư nết xấu : nhậu nhẹt say sưa, tham lam, gian dối, dâm dục, phóng đãng, mê tín dị đoan, đồng bóng, chửi rủa, đánh nhau, chia bè kết đảng, hằn thù, kình địch... Thiên Chúa đâu có chút nào như thế, mà họ như thế thì họ không là con, vì con phải giống Cha. Thế thì đối với Kitô hữu giả này, dù có chịu phép Rửa tội, mà không tái sinh, thì Chúa cũng phán bảo với họ : con không là con Ta, vậy không vào Nước Trời. Nước Trời là vương quốc, là nơi ở của những ai sống theo Thần Khí. Còn ngươi, ngươi chỉ có cái lễ nghi rửa tội, mà không tái sinh, không có Thần Khí, chỉ có toàn các việc xác thịt, trần tục, ô uế... ngươi vẫn hoàn là một người vô đạo. Không có chỗ cho ngươi trong Nước Trời.
Vậy hỡi anh chị em đang làm việc đền tạ, bài hôm nay rất quan trọng, ta hãy suy đi gẫm lại để thay đổi tư duy, thay đổi cuộc sống. Ta xin Chúa thứ tha lối sống cũ chưa tái sinh, và nếu ta xin ơn tái sinh, Chúa sẽ ban lại cho ta. Cách nào ? Kỳ khác ta sẽ bàn. Nhưng nên nhớ, - phải nói ngay ở đây - không phải chỉ sám hối, ăn năn, đi xưng tội là Chúa Cha ban lại ơn tái sinh đâu. Còn cần một hai điều quan trọng hơn nữa mà ta sẽ xem sau.
Tích truyện
Vào một đêm cuối năm, trời tối dần và tuyết cứ mãi rơi. Có một cô bé đầu trần, chân đất, đi dọc theo đường phố. Tay cô cầm bó diêm đem đi bán. Suốt ngày, chẳng ai mua dùm cô. Cô bé đói rét, thất thểu những bước đi run rẩy trông thật tội nghiệp. Cuối cùng, cô uể oải ngồi phệt xuống góc tường. Cô bé không dám về nhà, bố sẽ đánh chết vì không đem được chút tiền về mua bánh mì. Ngồi một lát thì lạnh cóng, cô bé nghĩ rằng có thể sưởi ấm đôi tay bằng cách bật một que diêm. Que diêm bùng cháy một ánh lửa rực rỡ..., cô tưởng tượng như mình đang ngồi trước một lò sưởi tuyệt đẹp, cô duỗi đôi chân mong nó được sưởi ấm đôi chút, nhưng xui xẻo, ánh lửa tắt ngấm, lò sưởi biến mất. Cô bật một que diêm nữa, ánh lửa rọi vào bức tường, dường như cô bé thấy trong bức tường giống như một căn phòng ấm áp, có trải khăn bàn trắng, trên bàn có những bát đĩa sứ, ở giữa lại có một con ngỗng quay vàng óng, bốc lên mùi thơm phức, sốt nóng. Nhưng que diêm cháy hết lại vụt tắt, trước mặt cô bé chỉ còn bức tường lạnh lẽo. Một que diêm nữa, lần này cô bé thấy mình ngồi trước một cây Noel to lớn, lộng lẫy, đủ ánh đèn màu sắc lung linh. Cô muốn đưa tay sờ cây Noel, song que diêm lại tắt. Những ánh sao trên cây Noel bay dần lên trời. Cùng lúc ấy, một ánh sao băng, sẹt một vệt sáng trên nền trời, cô bỗng nhớ đến bà ngoại, vì bà thường kể rằng : khi một vì sao rơi, ắt có một linh hồn bay lên thiên đàng. Cô chợt nhớ bà ngoại, người duy nhất trên đời yêu thương cô, nhưng bà đã qua đời. Cô đánh que diêm khác, và chao ôi ! Khi ánh lửa bừng sáng, cô bé thấy bà ngoại yêu dấu đang đứng giữa vầng hào quang mỉm cười nhìn cô. Cô bé kêu lên :
- Bà ơi ! Bà cho cháu theo với ! Cháu sợ khi diêm tắt, bà lại biến mất như lò sưởi, bữa ăn ngon và cây Noel lúc nãy thôi.
Và cô bé vội vàng quẹt tất cả những que diêm còn lại, như muốn giữ bà yêu dấu ở lại. Những que diêm sáng rực đến nỗi bầu trời bừng lên trong đêm như có mặt trời mọc. Và bà của cô chưa bao giờ lại đẹp như lúc này. Bà ôm cô vào lòng. Trong cảnh rực rỡ ngập tràn hạnh phúc ấy, hai bà cháu bay lên trời, xa dần trần gian để đến nơi mà hai người không còn cảm thấy đói lạnh và khổ đau nữa...
Sáng hôm sau, một ngày đầu năm giá lạnh, ở góc đường ấy, người ta thấy một cô bé bán diêm, gương mặt tái mét nhưng đôi môi vẫn mỉm cười. Cô ngồi dựa tường, tuyết phủ kín nửa người và đã bị chết cóng trong cái đêm cuối năm sương tuyết lạnh lùng ấy. Thiên hạ bảo nhau khi thấy tàn những que diêm còn vương vãi :
- Cô bé đã cố sưởi ấm cho mình đấy, song tội nghiệp... ! nó đã chết vì đói và lạnh !
Nhưng có ai ngờ : cô bé đã nhìn thấy những hình ảnh tuyệt vời và lộng lẫy như một giấc mơ. Cô bé đã cùng bà ngoại bước vào một nơi ngập tràn hạnh phúc.
(Phỏng theo tạp chí “Kiến thức ngày nay”, số 51, ngày 1-1-1991).
****************************************
BÀI LỜI CHÚA 76BIS
Tái sinh xảy ra ở đâu ?
Trích thư Rôma, 6.3-11
Anh em có biết không : khi chúng ta được dìm vào trong Đức Kitô Giêsu (nhờ chịu phép Thanh tẩy), là chính trong cái chết của Ngài mà ta được dìm vào. Và khi được dìm vào trong cái chết của Ngài, thì chúng ta cùng được mai táng với Ngài. Nhưng sau khi chết và bị mai táng, Đức Giêsu đã chỗi dậy khỏi mồ, sống lại nhờ bởi quyền năng phép tắc của Đức Chúa Cha, thì cũng vậy, ta cũng sẽ bước đi trong một cuộc sống mới.
Bởi vì, nếu ta đã được giống Đức Giêsu mà cùng chết với Ngài, thì chúng ta cũng sẽ được giống Ngài mà sống lại. Chúng ta biết điều này là con người cũ của ta, cội rễ mọi tội lỗi đã cùng bị đóng đinh thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người cũ bị tội lỗi thống trị ấy nay đã bị hủy diệt, thế là từ nay chúng ta không còn phải làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai đã chết, thì hết tội, thoát khỏi quyền hành thống trị của tội lỗi.
Cũng như Đức Kitô, sau khi dâng mình chịu chết có một lần thôi, thì không bao giờ Ngài phải chết nữa, quyền hành sự chết không còn thống trị được Ngài nữa ; nay Ngài đang sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy kể mình là đã chết rồi đối với tội lỗi, không còn lân la bén mảng gì với chúng nó nữa, nay anh em chỉ sống cho Thiên Chúa mà thôi.
* Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Chắc anh chị em còn nhớ đến bài “Hai phương án cứu độ của Thiên Chúa”, ở đó chúng ta có nói đến Thân mình Đức Giêsu phục sinh mà ta nhờ tin được nhập vào, ví như nhập vào trong lò Bát Quái... Anh chị em nhớ rồi chứ ? (bài 74bis).
Vậy việc tái sinh xảy ra ở đó, diễn ra trong đó... Thoạt chúng ta tin Đức Giêsu hết lòng, thì theo qui luật thông thường là ta sẽ chịu phép Thanh tẩy, để đóng ấn chắc chắn cho lòng tin của ta. Cũng như ngoài chữ ký, còn có dấu mộc đỏ mới chắc chắn. Như vậy, nhờ tin và chịu Thanh tẩy, thì ta được nhập vào Đức Giêsu, đúng như lời Thánh Phaolô dạy : “Hết thảy ta được nhờ thanh tẩy mà nhập vào thân mình độc nhất (tức Đức Kitô)” (1Cor 12.13).
Điểm 1 : Nhập vào thì việc gì xảy ra ?
Thánh Phaolô lại dạy : “Hết thảy ta được dìm vào (nhờ chịu phép Thanh tẩy) trong Đức Kitô, thì chính trong cái chết của Ngài mà ta được dìm vào” (Roma 6.3). Như thế là ta được dìm vào trong sự chết cứu chuộc của Chúa. Lấy hình bóng cái lò bát quái Của Thái Thượng Lão Quân trong truyện Tàu mà nói tương tự như thế này: khi ta được nhập vào thân mình Đức Giêsu tử nạn, phục sinh, ta được dìm vào trong lò bát quái, trong đó, máu Đức Giêsu đổ ra đền tội ta, sẽ tẩy ta sạch hết mọi tội lỗi, giặt áo linh hồn ta trắng như tuyết : nào tội tổ tông, tội riêng mình phạm từ trước cho đến lúc chịu phép Rửa, thì đều được xóa sạch hết, ta được nên công chính, hết bị án phạt. Kinh Thánh xác nhận : “Vậy bây giờ không còn án phạt nữa cho những ai ở trong Đức Kitô” (Rm 8.1). Nói giả sử lúc ấy ta chết ngay, ta sẽ được vào thiên đàng tức thì. Thánh Kinh tả một cách cụ thể việc xóa sạch tội bằng những câu đã đọc trên kia : “Chúng ta biết điều này : là con người cũ của ta cùng bị đóng đinh thập giá với Đức Kitô, thế là con người cũ tội lỗi bị hủy diệt (cùng bị đóng đinh là cùng chết, như Đức Giêsu đã bị đóng đinh thì đã chết). Mà chết thì hết tội, hết bị tội thống trị” (Rm 6.6-7). Thánh Phaolô còn nhấn mạnh hơn : ví như thể ta được cùng mai táng với Đức Kitô. Vì chết, có khi còn hồi sinh, có khi mới chết giả. Nhưng đã mai táng rồi thì không còn cách gì gọi là còn sống được. Ấy vậy, khi chịu phép rửa tội là ta nhập vào lò bát quái, sự chết của Đức Giêsu làm cho ta cùng chết, tội lỗi ta bị hủy diệt, rồi bị mai táng, chôn sâu hết thảy. Tạ ơn Chúa Giêsu !
Điểm 2 : Nhưng trong thân mình Đức Giêsu, không chỉ có chết, mà còn có sự phục sinh nữa ; cho nên như Đức Kitô đã sống lại thế nào sau khi con người cũ bị hủy diệt, thì ta sống lại trong một đời sống mới ! Thánh Phaolô dạy rõ điều đó : “Như Đức Kitô nhờ bởi quyền năng của Cha mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, cũng (sống lại và) bước đi trong đời sống mới. Vì “nếu ta cùng chết với Đức Kitô, thì ta tin rằng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài... Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, Ngài không còn bao giờ phải chết nữa, sự chết không còn quyền gì trên Ngài nữa... Ngài đang sống, sống cho Thiên Chúa, thì cũng vậy, ta hãy kể là mình đã chết rồi đối với tội, và từ nay chỉ sống cho Thiên Chúa mà thôi (Rm 6.4,8-11). Thế là sau khi tội lỗi và con người cũ chết, là ta sống lại và sống cho Chúa.
- Mấy câu Kinh Thánh trên này hơi khô khan, nhưng chỉ vì mầu nhiệm quá cao siêu, lại muốn diễn tả bằng ngôn ngữ thiếu sót của loài người, cho nên nó phức tạp và khó hiểu... Nhưng nó nói lên một sự thật rất vui mừng cho ta. Đây, hãy xem người các đạo khác : ăn chay trường, niệm phật luôn miệng, ra công trừ diệt tham sân si, mọi đam mê dục vọng..., khổ công tu thân luyện tánh như thế, nhiều khi mất cả cuộc đời mà chưa đủ, vẫn còn sót tội này, tội nọ, gây thành tiền oan nghiệp chướng (giống như cối đá buộc vào cổ), khiến họ lại phải nhào vào vòng luân hồi... để tu lại, hoặc tu tiếp... Hầu hết họ cứ vào luân hồi rồi sinh ra kiếp khác như thế, luẩn quẩn, loanh quanh mãi đến ba bốn ngàn kiếp mà chưa thành chánh quả... Còn ta, chỉ cần một kiếp độc nhất là kiếp người hiện thời, ta tin vào Đức Giêsu cứu chuộc và được nhập vào thân mình Tử nạn phục sinh của Ngài, thế là được máu Ngài luyện sạch ngay tức thì. Nói đến đây, ta ngừng lại mà vui mừng tạ ơn Chúa Giêsu, Đấng đã lạ lùng, nhẹ nhàng, mau chóng tẩy sạch tiền khiên, (hoặc nói theo tiếng nhà Phật) tẩy sạch mọi tiền oan nghiệp chướng “cái rụp” cho ta như vậy để ta được sống đời đời.
* [Mời tất cả đứng lên hát một bài ca vui vẻ tạ ơn... Sau đó mời ngồi. Hoặc nếu thấy dài, có thể để phần sau cho một buổi khác...]
Điểm 3 : Công việc lò bát quái (= thân mình Chúa Kitô) luyện tẩy chúng ta đến đây đã kết thúc chưa ? Thưa : chưa, đúng hơn mới bắt đầu !
Số là vì “cái tôi” của ta nó chưa chết hẳn. Bao lâu ta còn sống ở trần gian, còn gặp bao nhiêu cám dỗ, bao thử thách, đang khi đó ma quỉ, thế gian còn đó, đứa thì xúi giục, đứa thì bầy ra nhiều cái hấp dẫn, lôi kéo, cám dỗ, quyến rũ “cái tôi” của ta !
Khi ta vừa nhập vào lò tẩy luyện, tội được tẩy sạch rồi, ta được nên công chính rồi. Nếu ta chết ngay, thì như trên đã nói, ta lên thiên đàng tức thì. Nhưng ta còn tiếp tục sống..., ma quỉ và thế gian sẽ cám dỗ ta, và muốn lôi ta ra khỏi Đức Giêsu ! “Cái tôi” của ta lại bị lôi kéo... Tuy nhiên, có những người, một khi nhập vào ĐY, họ hết lòng thuộc về Chúa Giêsu, hết lòng để cho Thần Khí Chúa dẫn đưa, thì họ được sức mạnh, luôn luôn làm theo ý Chúa, họ bắt “cái tôi” của họ đầu phục Chúa hoàn toàn, thế là họ cứ sống trong ơn sủng, sống thánh thiện mãi. Cái tôi của họ nay được Đức Giêsu chiếm lấy trọn vẹn... Họ vẫn sống ở đời, vẫn ăn uống làm việc, nhưng xem ra như có một người khác đang sống trong họ, điều khiển họ, chi phối mọi hoạt động và sinh hoạt hằng ngày của họ. Đó là điều mà Thánh Phaolô đã kinh nghiệm và diễn tả như sau : “Cái tôi (cũ) của tôi đã chết rồi, đã bị đóng đinh và mai táng trong mồ cùng với Chúa Giêsu rồi. Này tôi sống (tôi vẫn ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc...), nhưng (xem ra) không phải tôi nữa, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi hiện tại trong xác phàm này, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi” (Galát 2.19-20). Những người sống như thế, thật là tuyệt vời. Trước kia, đời họ đâu có tốt lành như thế, trái lại, “cái tôi” làm chủ hết, cái gì họ cũng làm theo ý riêng mình, thích thì làm, không thích thì thôi, thích gì làm nấy: thích ăn thì cứ ăn, thích chơi bời cứ chơi bời, thích giận ai, muốn báo thù, cứ làm cho thỏa..., thích tiền, chạy theo tiền, thích danh vọng, chạy theo chiếm cho kỳ được ! Lương tâm cắn rứt ư ? Bẻ răng nó đi ! Hoặc lấy lý nọ, cớ kia để bào chữa, để đánh lừa lương tâm, dối lòng. Vợ chồng, con cái có phàn nàn, kêu trách ư ? Thây kệ, giả điếc làm ngơ, nếu tính cộc cằn hơn thì đánh đập, bịt miệng lại ! Chúng tôi tạm vẽ chuyện đó dưới hình một cái nhà, là hình bóng tất cả đời sống ta, trong đó diễn ra các hoạt động, ăn uống, giải trí, vui chơi, ngủ nghỉ, liên lạc với người nọ, người kia, đọc sách trong tủ sách, buôn bán... Trong căn nhà ấy, ở giữa có một cái ghế làm ngai, trên ngai ấy, CÁI TÔI ngự trị, làm chủ, làm theo ý thích riêng của mình mọi sự, mọi việc. Đây là hình vẽ tượng trưng ấy :
Vấn đề là đưa Đức Kitô lên ngai làm chủ, hạ bệ CÁI TÔI xuống, phục quyền Chúa, để Chúa dẫn dắt, điều kiện mọi sự, mọi việc. Công việc này dài hay ngắn, tùy lòng đại độ của mỗi người. Có người rất lâu, rất dài, có người rất chóng, rất ngắn. Bởi đó, ta nói trên kia là việc nhập vào lò luyện của Chúa Kitô mới chỉ là bước đầu. Cái TÔI ấy (Thánh Phaolô thường nói : con người cũ) là cội rễ mọi sự dữ, chúng ta đã thừa kế từ ông tổ, bà tổ Ađam, Eva. Nó phải bị hạ bệ, truất phế khỏi ngai, không được làm chủ nữa, để Chúa Kitô lên ngai, làm Chúa, làm chủ. Công việc ấy rất khó, nếu xét theo sức loài người. Song anh chị em đừng sợ, khó mà lại hóa dễ, vì trong Đức Kitô, anh chị em không chỉ có một mình như khi người ta giữ luật thời Cựu Ước, mà còn có Thánh Thần, là quyền năng Thiên Chúa giúp ta. “Ngoài Thày ra, các con không làm được việc gì”, Đức Giêsu nói như thế. Cho nên, cần nhất là cứ ở trong Đức Giêsu luôn. Thánh Phaolô nói kinh nghiệm của ông : “Trong Thiên Chúa, tôi có thể làm được mọi sự”. Vì Chúa hứa : “Ơn ta là đủ cho ngươi ! Vì chưng trong yếu đuối, quyền năng Thiên Chúa mới có dịp thi thố hết hiệu năng” (2Cor 12.9). Vậy chúng ta đừng sợ, một hãy tin. Với đức tin, chúng ta sẽ thắng, sẽ thành công. Chỉ cần anh chị em hãy phú thác cho Chúa Giêsu hết cả, với một niềm tin cậy trọn vẹn, rồi anh chị em sẽ thấy phép lạ xảy ra : cuộc đời anh chị em sẽ biến đổi, sẽ sống vui mừng, sẽ thấy bình an, hoan lạc, sẽ hạnh phúc ngay từ đời này cho đến mãi đời đời.
Tích truyện
Một câu chuyện cổ tích thuật lại rằng : Khi Chúa giáng sinh, các thú vật đều tới mừng Chúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà. Bò cái dâng sữa, khỉ biếu Chúa mấy trái dừa, sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa Hài Đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc ấy, chàng cáo xuất hiện. Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn ta gian manh, quỉ quyệt. Chúng chặn không cho cáo đến gần Chúa, sợ nó lại âm mưu chuyện gì đây. Cáo nói :
- Tôi đến dâng lễ vật cho Chúa !
Nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật nào. Tuy nhiên, Chúa vẫn ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa, chàng cáo thì thầm dâng cho Chúa lòng quỉ quyệt của mình.
Mọi thú vật đều bỡ ngỡ : dâng gì kỳ cục vậy ? Trái lại, cáo ta vui mừng, hớn hở. Còn Chúa đặt hai tay lên đầu cáo tỏ dấu chúc lành. Xưa nay, cáo sống sung sướng trên lưng kẻ khác nhờ sự quỉ quyệt của mình. Từ đây, dâng cho Chúa rồi, nó sẽ phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương thiện. Hóa ra chàng cáo đã dâng nhiều hơn tất cả.
Chúng ta cũng vậy, con người và đời sống ta có xấu xa, gian manh, quỉ quyệt như chàng cáo, cứ tin cậy dâng mình cho Chúa, một khi Chúa nhận của lễ, đem ta vào trong Chúa, mọi sự sẽ biến đổi tất cả.
***************************************************
BÀI LỜI CHÚA 76TER
Chúa luyện ta cách nào ?
Trích Tin Mừng Mathêô 4.1-10
Sau khi Đức Giêsu chịu phép Thanh tẩy nhờ tay ông Gioan Tẩy giả, Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống và lưu lại trên Ngài, thì Thần Khí dẫn đưa Đức Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỉ cám dỗ. Tên cám dỗ tiến lại nói :
- Ngài đã giữ chay 40 ngày, chắc Ngài đói lắm ? Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, chắc có quyền phép trong tay, thì hãy truyền cho các viên đá này biến thành bánh mà ăn !
Nhưng Đức Giêsu lấy lời Kinh Thánh mà đáp trả nó rằng :
- Có lời Kinh Thánh chép : Người ta sống không chỉ nhờ bánh, mà là nhờ vào mọi lời từ miệng Thiên Chúa xuất ra.
Bấy giờ, ma quỉ đem đặt Ngài lên đỉnh Đền Thờ, bên dưới là nhìn xuống thung lũng và vực sâu, mà nói :
- Nếu Ngài là con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống dưới, vì Thiên Chúa sẽ ra lịnh cho các thiên thần nâng Ngài trên bàn tay họ, không để cho chân Ngài vấp phải đá đâu !
Đức Giêsu xét thấy ma quỉ xúi giục mình thử thách Thiên Chúa phải làm phép lạ vô cớ để cứu giúp một hành vi ngông cuòng, ngạo mạn của mình, nên Ngài lấy lời Chúa đáp trả :
- Không được, Kinh Thánh dạy rằng : Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa của ngươi !
Chưa chịu thua, ma quỉ bày ra keo khác, nó đem Ngài lên một núi cao, và chỉ cho Ngài thấy hết các nước thiên hạ cùng vinh quang phú quí của chúng, rồi nói với Ngài :
- Từ khi nhân loại sa ngã phạm tội, đánh mất quyền làm chủ vũ trụ, thì cả thế gian và vinh hoa phú quí các vua, các nước đều thuộc về tôi rồi, tôi muốn hiến cho ai tùy ý. Nếu Ngài phục mình bái lạy tôi, tôi sẽ hiến cho Ngài hết cả.
Không cầm mình được trước sự lộng hành của ma quỉ, Đức Giêsu phán :
- Xéo đi ! Satan ! Ta không bao giờ quì lạy ai, vì lời Kinh Thánh dạy : Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người.
Bấy giờ, ma quỉ bỏ Ngài mà đi, song nó còn chờ dịp khác...
* Đó là Lời Chúa ! - Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Như đã học kỳ trước, công việc luyện tẩy trong lò tái sinh (tức là thân mình Đức Giêsu phục sinh) cốt nhất ở việc làm cho ta hạ bệ cái TÔI, cái bản ngã riêng, tội lỗi, hướng về sự dữ của ta, để dần dần, một cái TÔI khác là Chúa Giêsu sống và chi phối tất cả đời sống của ta. Hãy nhớ đến hình ảnh cái nhà, ở giữa có một ngai, trên đó, hồi trước là cái TÔI ngự trị, điều khiển... Sau đó, hạ bệ cái TÔI xuống, mời Chúa Giêsu lên ngự.
Kỳ này, ta sẽ đặt câu hỏi : Chúa dùng cách nào để luyện tẩy như thế ? Thưa : Bằng lời Chúa. Đây ta sẽ xem tại sao.
Người ta kể truyện rằng có hai gia đình kia, bên này là của ông An, bên kia là của bà Bình. Hai nhà cách nhau có một bờ giậu bìm bịp, nên vui vẻ qua lại, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Xảy ra, có mấy con cháu bà Bình về ở, thế là không biết họ bàn nhau thế nào, bà Bình bèn xây một bức tường gạch thật cao ngăn cách hai nhà, phá bỏ hàng giậu bìm bịp thân thương, khiêm tốn, nhờ đó gió lùa qua khe lá về mát nhà ông An. Ông cảm thấy bị xúc phạm. Ông cho rằng bà Bình coi như nhà ông toàn là trộm cắp, nên phải xây bức tường cao ấy. Đàng khác, bức tường chắn hết gió, mùa hè nhà ông An như một cái nhà tù sau bức tường che chắn. Ông bực tức nghĩ rằng : miệng bà ta thì leo lẻo tình nghĩa, thế mà nay làm một việc hoàn toàn vô nhân đạo như thế. Càng nghĩ, ông càng giận, và từ đó, ông cho gia đình bà Bình là đểu giả, là vô nhân đạo, và ông không thèm chào hỏi, hoàn toàn lãnh đạm, gặp cũng không thèm nhìn, để mắt đi nơi khác ; ngày lễ tết, không thèm qua lại chúc mừng, thăm viếng...
Cho đến một hôm, đi học lời Chúa, ông được Chúa dạy ông lời này : “Nếu các con yêu mến những kẻ yêu mến các con, thì các con có công gì ? Há những người thu thuế tội lỗi cũng không làm thế sao ? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em, bà con các con, thì các con có làm gì lạ ? Há người ngoại cũng không làm thế sao ? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Nghe lời ấy, ông An giật mình, tin chắc lời này Chúa Giêsu nói cho chính mình ông. Phải đúng thật, từ ít lâu nay, ông đã không còn vui vẻ chào hỏi gia đình bà Bình nữa, mà chỉ vui vẻ, thân tình với anh em, bà con, bạn hữu của mình ; té ra ông cư xử như một người ngoại, tức là ông sống theo cái bản ngã xấu xa, ngoại đạo, sống theo bản năng tự nhiên của cái TÔI. Chúa Giêsu đâu có sống như thế. Vậy ông nhất quyết sẽ triệt hạ cái TÔI ấy, không cho nó điều khiển tâm tình và cử chỉ của ông, ông sẽ để Chúa Giêsu sống trong ông. Và ông hạ mình xuống ăn năn thống hối, rồi ông xin Chúa dạy ông phải làm sao ? Chúa Giêsu mới dạy ông phải nên trọn lành như Cha trên trời, Người vẫn ban mưa nắng và mặt trời soi sáng, sưởi ấm cho cả kẻ lành lẫn kẻ dữ... Ông An quì xuống cầu nguyện, xin cho ông có sức triệt hạ cái TÔI còn đang căm giận bà Bình, mà để Chúa Giêsu sống trong ông như ý Chúa. Thế là, Chúa soi sáng cho ông : vào địa vị ông, Chúa sẽ vui vẻ chào hỏi bà Bình, tha thứ, hoặc đúng hơn, bỏ qua câu chuyện bức tường ô nhục kia..., không còn đếm kể đến tự ái mình bị xúc phạm, mà sẽ cư xử như chính Chúa Giêsu đang sống trong ông cư xử với bà ấy... Thế là từ ngày đó, dù bức tường ngăn cách vẫn đứng sừng sững đó, nhưng tình yêu đã vượt qua được mà đem người bên này đến bên kia.
1/ Câu chuyện có thực ấy tuy nhỏ, nhưng đã cho thấy rõ : những ai tin vào Đức Giêsu và nhập vào thân mình Ngài, thì ở trong “lò bát quái” ấy, Ngài luyện cho họ diệt tan cái TÔI xấu xa, ngoại đạo, sống theo ý riêng mình, làm theo ý xấu của mình, để từ nay chỉ còn Chúa Giêsu sống trong họ, làm chủ và điều khiển mọi tâm tình, mọi hành động của họ. Và Chúa Giêsu luyện như thế bằng lời của Ngài. Ngài soi sáng cho họ nhớ lời Ngài dạy trong Kinh Thánh, cách riêng sách Phúc Âm, rồi Ngài ban ơn sức mạnh cho họ làm theo lời ấy, tức là làm theo Chúa, Chúa làm sao, họ làm vậy, Chúa sống sao, họ sống vậy. Để rồi cứ thế, càng ngày họ càng thấy không còn phải là họ sống nữa, nhưng xem ra như Chúa đang sống trong họ (x. Galát 2.20).
Hồi xưa, người ta vẫn thường nói : Phúc Âm hóa đời sống Kitô hữu, hay là : sống theo gương Đức Giêsu. Ngày nay, chúng tôi nói có màu sắc Kinh Thánh hơn là : Để Chúa sống trong ta, để Chúa làm chủ đời ta, Chúa tái sinh ta... (ấy là chúng tôi chưa kể thêm nhiều cách nói mới lạ khác như : canh tân trong Thánh Linh, Thanh tẩy trong Thần Khí, Biến đổi bởi Thần Khí...). Các cách nói có khác nhau, song cùng chung một mục đích, cùng nhắm diễn tả một sự việc.
2/ Nếu Chúa tẩy luyện chúng ta nhờ dùng Lời Chúa, thì chúng ta nhất thiết phải chăm chú nghe và giữ lời Chúa. Qua đây, ta hiểu được tại sao có nhiều người dự khóa Thánh Linh, khóa Canh tân đặc sủng..., hoặc dự khóa tĩnh tâm, linh thao... ; ở đó, họ được ơn Chúa Thánh Thần rất mạnh mẽ, có người đã khóc lóc thống hối và trở lại cách nhiệt tình, bỏ đời sống tội lỗi ; có người được ơn xuất thần, ngất trí, nói tiếng lạ... ; có người đổi đời sống như lột xác... Nhưng chỉ được ít lâu, sự sốt sắng, nồng nhiệt ban đầu nguội dần... ; con người cũ, cái TÔI ích kỷ, cái bản ngã xấu xa lại dần dần sống lại như trước kia, leo lên ngai làm chủ lại !
Ấy là vì những người đó không còn chuyên tâm đọc lời Chúa, học lời Chúa, để biết Chúa dạy gì mà làm theo. Cuộc đời con người phức tạp, biết bao điều khó xử, biết bao khó khăn cần giải quyết. Chúng ta sẽ sống, sẽ cư xử thế nào đây ? theo đường nào, lối nào ; đang khi chung quanh ta chỉ nghe những luận điệu xúi giục của ích kỷ, của đam mê... ; những châm ngôn ngoại đạo, phàm tục như : người ta làm sao, mình cũng cứ làm thế ; sống là phải hưởng thụ cho hết mình, dại gì mà giữ mình... ; cuộc đời vắn vỏi, “chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì theo sau”... ; mình không làm, người khác cũng làm... ; của công, ai hơi đâu mà lo... Nếu không có Chúa dạy cho ta lời Ngài để biết phải sống theo lối nào đúng ý Chúa, kẻo hư hỏng linh hồn và xác, đánh mất sự sống đời đời..., thì làm sao ta giữ mình được mà không bị cuốn phăng theo giòng nước lũ, hay bị bốc đi theo cơn lốc xoáy ấy ?
3/ Bạn đừng nghĩ nghe theo lời Chúa mà sống ngược với bản ngã tự nhiên, ngược cái TÔI tự mãn, ích kỷ như thế hoài, chắc mệt lắm và buồn lắm ! Phải công nhận rằng : làm ngược cái bản ngã riêng, tính mê nết xấu thì quả có khó, có mệt, và xác thịt lăng loàn của ta sẽ phản đối tùm lum... Nhưng bạn đừng sợ, như đã nói kỳ trước, Đức Giêsu sẽ ban ơn Thánh Thần vừa êm ái, vừa mạnh mẽ để giúp bạn... Chẳng vậy, hóa ra Đức Giêsu nói láo sao, khi Ngài kêu gọi ta : “Hãy đến cùng Ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức... Hãy cứ vác lấy ách của Ta vào mình... các con sẽ tìm thấysự nghỉ ngơi cho tâm hồn” (Mt 11.28-29) ? Tiến sĩ Aogutinô đã kinh nghiệm câu nói đó cách thấm thía. Ông đã dành cả tuổi trẻ chạy theo danh vọng, chạy theo thú vui xác thịt... ; cuối cùng, quá mệt mỏi, ông được ơn trở lại với Chúa, ông mới thốt lên một câu nói mà danh tiếng truyền đến hơn chục thế kỷ. Ông nói : “Quả thật, Chúa đã dựng trái tim chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con không thể tìm an nghỉ ở đâu cho đến khi an nghỉ nơi Chúa”. Mới đầu thế kỷ này, Cha Sạc-lơ-đơ-Fu-cô cũng nói gần gần như vậy.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Chúa, tức là chỉ có Chúa mới ăn khớp với đời ta, mới thỏa mãn ta đầy đủ. Bỏ Chúa chạy theo mọi sự vật đời này, rồi ra con người sẽ thấy chán ngán, thất vọng ê chề. Mới đây, báo Kiến thức ngày nay (tháng 5-1993, số 107) có cho tin về ca sĩ luống tuổi Johny Halliday, cưới vợ lần thứ 6 với cô gái 18-20 (Karine). Ở những lần cưới vợ trước, lần nào ông ta cũng nói : “Lần này, tôi đã tìm được người thích hợp cho tôi”, hoặc “Đã tìm thấy người đàn bà của đời tôi”, hoặc : “Tôi thấy cô, tôi hiểu ngay là tôi đã gặp định mệnh của mình”. Kết quả là chia tay nhau sau 1 năm, 2 năm ; có lần chỉ 3 tháng. Thế mà sao khi trình diễn ca nhạc (anh là ca sĩ nổi tiếng nhất nước Pháp về nhạc Rock), anh vẫn gào lên : “Đời tôi cô đơn !”.Với cô Karine, vợ thứ sáu này, cuộc tình sẽ kéo dài bao lâu? Người ngoài cuộc đang đánh cá với nhau...
Nếu Johny Halliday hay những ai giống như thế, mà có đầu óc tỉnh táo hơn, chắc sẽ nói lên như Aogutinô, như Sạc-lơ-đơ-Fu-cô không ? Chỉ có Chúa mới cho tâm hồn tôi được nghỉ ngơi. Quả thế, chỉ có Thiên Chúa mới vừa khít cho đời ta, chỉ Người, là tất cả và luôn luôn mới, mới thỏa mãn lòng con người. Chúa đã dựng ta cho Chúa là thế đó. Và chỉ khi nào chiếm được Chúa, ta mới thật được nghỉ ngơi, hạnh phúc đầy đủ. Ngoài Chúa ra thì sẽ “Sông bao nhiêu nước cũng vừa, người bao nhiêu của vẫn chưa thỏa lòng”.
- Bạn sẽ nói : những câu đầy khôn ngoan và đúng sự thật ấy chỉ nhận định được sau một cuộc đời sóng gió, trầy trụa rồi, chứ còn ngoài ra - nhất là khi người ta còn trẻ, còn ham đời - mấy ai hiểu được mà làm theo ? Đáp : có chứ ! Biết bao tín hữu vì đã để Chúa Giêsu làm chủ đời mình, thì đã làm theo được và nhờ lời Chúa dạy, họ đã hiểu sự khôn ngoan kia không chờ tuổi tác, đã đến với họ từ sớm, ngay cả từ tuổi trẻ. Vì họ tin Đức Giêsu, và nhập vào trong thân mình Ngài, có Chúa Thánh Thần dạy họ sự khôn ngoan ấy và tẩy luyện họ. Ngài là Thần Khí sự thật mà, Ngài có phận sự - như lời ĐY hứa trong sách Tin Mừng - dẫn dắt chúng ta vào tất cả sự thật, dạy dỗ chúng ta biết sống khôn ngoan như Chúa muốn.
Tóm lại, chúng ta xác tín rằng : không học và đọc lời Chúa - kèm với cầu nguyện - không thể nào triệt hạ được cái TÔI xấu xa, ích kỷ, cái bản ngã hư hỏng, hướng chiều về tội lỗi của chúng ta. Cùng lắm, bề ngoài ta có thể thấy người giáo dân ấy làm các thủ tục tôn giáo, giữ những luật lệ bó buộc, làm những thực hành đạo đức như đọc kinh, đi dự lễ, xưng tội, rước lễ..., nhưng con người bên trong không được cải tạo, con người cũ vẫn thống trị cuộc đời, cái TÔI của họ vẫn làm chúa, làm chủ ; bản ngã ích kỷ của họ vẫn chi phối, điều khiển mọi tâm tình, suy tính, hoạt động hoặc giao tiếp của họ. Vẫn cái TÔI của họ sống trong họ, chứ Chúa Kitô chưa sống và chỉ huy đời họ.
Chúng ta đã thấy trong bài Tin Mừng đọc ở đầu gương Đức Giêsu không sống theo cái TÔI của Ngài ! Ngài có thể nhủ mình : “Ta đói quá, ăn chay 40 đêm ngày rồi, ma quỉ nó gợi ý cho ta là ta có quyền phép của Con Thiên Chúa, ta hãy lấy quyền phép ấy mà làm phép lạ để có vài cái bánh ăn đỡ đói. Việc ấy có làm hại ai đâu ?”. Nhưng lập tức, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng đã xuống trên Ngài và lưu lại trong Ngài, từ khi chịu Phép Rửa, liền soi sáng cho Ngài hiểu : Loài người sống không chỉ nhờ bánh, mà còn nhờ vào mọi lời xuất ra từ miệng Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đuổi cơn cám dỗ ấy. Ngài tự bảo lòng : Ta rán đi xuống núi tìm quán trọ nào đó, ăn chút gì đỡ đói - Đó, anh chị em thấy Đức Giêsu không làm theo ý riêng của cái TÔI, như thế sẽ nghịch ý Thiên Chúa. Quyền phép Thiên Chúa ban cho Ngài lớn lao lắm, sau này Ngài sẽ làm phép lạ hóa bánh ra nhiều vô số cho 5 ngàn người ăn no nê, nhưng đó là phục vụ con cái Chúa, những người đã đi theo Ngài để nghe Ngài giảng Lời Chúa cho họ. Còn trong trường hợp cám dỗ đây là lấy quyền phép mà phục vụ cá nhân mình, cái bụng của mình..., thì là lạm dụng quyền phép. Nếu chính Đức Giêsu cũng phải lấy Lời Chúa để soi sáng cho cách xử sự và hành động của Ngài, thì huống hồ chúng ta, ta cũng phải để Lời Chúa dạy ta, luyện tẩy ta sống theo ý Thiên Chúa như vậy.
*******************************************
BÀI LỜI CHÚA 76QUATER
Đạo buồn hay đạo vui ?
Trích Tin Mừng Luca, ch.24
Chiều Chúa nhật phục sinh, trên con đường đi về Em-mau, một làng cách Yêrusalem chừng 11 cây số, hai bộ hành vừa đi vừa chuyện trò, nhưng coi bộ họ buồn bã thất vọng. Chính lúc đó, Đức Giêsu phục sinh đến nhập bọn đi cùng, nhưng họ không nhận ra Ngài. Nỗi buồn, nỗi sợ và thất vọng đã bưng mắt họ lại. Ngài bắt đầu câu chuyện :
- Các ông nói chuyện gì với nhau mà coi bộ buồn bã vậy ?
Một trong hai người, tên là Klê-ô-pha đáp :
- Ông không biết gì về các biến cố xảy ra mấy ngày nay sao ? Này nhé : ông Giêsu làng Nadarét thật là một vị tiên tri có quyền năng làm nhiều phép lạ và đầy uy quyền khi giảng dạy. Thế rồi Ngài bị bắt, bị đóng đinh trên thập tự giá. Phần chúng tôi, hi vọng tiêu tan thành mây khói, vì chúng tôi tưởng Ngài sẽ giải phóng cho dân Israen. Thế mà, đã ba ngày qua rồi, kể từ hôm Ngài chết. Nói cho đúng, có vài người đàn bà kể lại những chuyện làm chúng tôi hoảng hồn : họ nói họ tới viếng mồ, thì không thấy xác Ngài, mà chỉ thấy các thiên thần hiện ra nói Ngài đã sống lại ! (Ôi miệng đàn bà ấy mà, tin làm sao được). Ấy thế mà cũng có vài ông trong nhóm môn đồ đã nghe theo và đi ra mồ, và đã thấy mồ trống như mấy bà nói, còn Đức Giêsu thì họ chẳng thấy đâu. Thiên thần cũng chẳng thấy nốt !
Bấy giờ, Đức Giêsu nói cùng họ :
- Ôi, mấy kẻ ngu độn và lòng trí chậm tin vào lời Kinh Thánh đã báo trước là Đức Kitô phải chịu khổ nạn để được vào vinh quang.
Hai người ấy ngẩn mặt ra, có vẻ họ muốn nói : Có lời Kinh Thánh nào nói như vậy đâu ? Thế là Ngài lấy từ sách ông Môsê viết, rồi sách các tiên tri nói, mà dẫn giải cho họ các điều viết về Đức Kitô trong suốt bộ Kinh Thánh.
Cả ba đến gần làng Em-mau, nhưng Ngài làm như thể còn phải đi xa hơn. Họ cố nài Ngài vào nghỉ chân và dùng bữa tại nhà họ. Vả lại, trời đã về chiều, khách bộ hành đơn độc có thể sẽ gặp trộm cướp dọc đường..., nên Ngài đã vào nhà ở lại với họ. Và đang khi ngồi vào bàn ăn, Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho họ, thì mắt họ mở ra và họ nhận biết Ngài... Nhưng Ngài đã bỏ họ đấy mà khuất mắt họ. Lúc ấy, họ mới thú nhận với nhau :
- Chúa đó, thảo nào, lòng chúng ta đã chẳng cháy bừng bừng lúc dọc đàng Ngài giải nghĩa Kinh Thánh cho ta đấy ư ?
Quá vui mừng vì được thấy Chúa, ngay giờ ấy, tức tốc họ bỏ bàn ăn, quay trở lại Yêrusalem, thì gặp các môn đồ còn đang tề tựu đó, họ liền thuật lại các việc Chúa giảng giải lời Kinh Thánh lúc đi dọc đàng và làm sao họ đã nhận biết Ngài lúc bẻ bánh.
* Đó là Lời Chúa ! - Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Nếu anh chị em chưa quên, thì đã có một lần, ta đọc bài Kinh Thánh này (x. bài 70), song đem dẫn giải về một ý khác. Còn kỳ này là cốt ý cho hiểu : không đọc và suy gẫm lời Chúa, đời sống đạo sẽ buồn sầu, không có hân hoan... Sự tích hai môn đệ Em-mau không chỉ là chuyện riêng của hai người, vì sách Thánh được viết ra là cho tất cả Giáo Hội và cho từng người chúng ta. Điều đã xảy ra cho họ, Chúa muốn bảo là cũng xảy ra cho ta. Đã từ lâu, chẳng phải mỗi người chúng ta thường đã quá chú ý đến tội lỗi của mình, miệng luôn rền rĩ than van xin Chúa tha tội, trong trí, trong lòng lúc nào cũng bị ám ảnh bởi tội, luôn sống trong lo buồn, âu sầu..., sợ Chúa phán xét, sợ rơi xuống hỏa ngục, mất linh hồn ? Chẳng phải là một cái đạo sợ hãi, âu sầu đó ư ? Đành rằng - chúng tôi xin khẳng định một lần cho rõ - chúng ta cũng phải lo sợ phạm tội, và khi đã lỡ phạm tội rồi, thì phải lo buồn ăn năn, hối cải vì đã làm mất lòng Cha nhân ái. Nhưng không thể để cho hầu như tất cả cuộc sống ta bị bao trùm bởi không khí tội lỗi ám ảnh, khiến cho đời ta âu sầu, ảm đạm hoài mãi ! Cứ xem trong các kinh ta đọc, ngay cả trong bản kinh Thánh Lễ, quá nhiều lần van xin tha tội... Chúng tôi có một kinh nghiệm này là hễ mời một người nào tự phát cầu nguyện là y như sẽ nói : “Lạy Chúa, chúng con là kẻ có tội...”, rồi “Chúng con buồn vì đã xúc phạm đến Chúa...”, rồi “Xin Chúa tha tội chúng con, chúng con không xứng đáng...”, sau đó là xin ơn... Hầu như ai cũng đã thuộc lòng mấy câu buồn tẻ đó... riết cũng đâm nhàm. - Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, vì từ nhỏ, người ta đã cứ chõ vào tai ta những câu đại loại như thế ! Đạo như thế thật buồn. Một đạo bao trùm bởi lo sợ. Thánh Gioan viết : Đó là đạo thiếu lòng mến, “vì nơi lòng mến không có sợ hãi, trái lại, lòng mến trọn hảo thì không còn sợ hãi nữa, vì sợ hãi có liên quan đến hình phạt, và kẻ sống đạo mà sợ hãi, ắt là chưa trọn hảo trong lòng mến Chúa” (Thư 1 Ga 4.17-18).
Thứ đạo ấy là đạo trước phục sinh, thứ đạo mùa Thương Khó, không biết đến phục sinh, cho dù Chúa đã sống lại từ 2.000 năm. Đạo đó của chúng ta giống hệt hai môn đệ Em-mau, Chúa đã sống lại rồi, mà họ vẫn còn buồn rầu, sợ hãi, đến nỗi chính Chúa phục sinh đến bên họ và hỏi : “Chuyện gì vậy ? mà sao bộ mặt mấy ông buồn rầu, ảo não làm vậy ?”. Thế là họ kể ra nỗi buồn, nỗi thất vọng của họ... Thày chúng tôi chết rồi ! Thế là hết !... Chúng tôi quay trở về làng cũ đây... Họ đáng bị Đức Giêsu trách mắng (và cả chúng ta cũng đáng) : “Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi lời Kinh Thánh đã nói !”
Qua lời trách của Đức Giêsu phục sinh, ta vỡ lẽ ra rằng : nếu ta sống đạo buồn bã, lo sợ là chỉ vì ngu độn và chậm tin vào lời Kinh Thánh, nói khác đi, vì không đọc sách Thánh để thấy thuật lại những gì Thiên Chúa đã làm cho ta vì lòng thương vô bờ, nên ta cứ co quắp lại nghĩ về mình, nghĩ về sự bất xứng, tồi tệ của mình, về tội lỗi mình, nên không thể vui mừng, hân hoan tạ ơn, ngợi khen Chúa được, không tìm trong đạo niềm hạnh phúc được !!!
Hỏi : Chúa làm thế nào để chữa bệnh tâm hồn cho hai môn đồ ? Bài Kinh Thánh đáp : bằng cách đơn sơ lấy sách Kinh Thánh, từ sách ông Môsê viết, và hết thảy các sách tiên tri, mà dẫn giải cho họ nghe các điều đã viết về Chúa Giêsu, về kế hoạch cứu độ nhưng không của Thiên Chúa thi hành để cứu độ thế gian. Thế là các ông sau đó thú nhận với nhau : “Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng, lúc đi dọc đàng Ngài giải nghĩa Kinh Thánh cho ta nghe đó sao ?”. Thế là tâm họ đổi hẳn, từ buồn rầu, thất vọng, bị thương đau, trở thành vui mừng, hân hoan, sốt nóng, hăng hái, và nhất là họ nhận ra Chúa đã sống lại. Tức tốc ngay tối ấy, không quản ngại nguy hiểm bị cướp bóc trên đường đồi núi hẻo lánh, họ vượt mười mấy cây số trong đêm tối, để trở lại Yêrusalem báo tin đã được gặp Chúa sống lại, được Ngài giảng Thánh Kinh, được Ngài bẻ bánh cho, và được nhận ra Ngài đã sống lại... Qua những nét tả ấy, chúng ta có thể nhận thấy tâm hồn họ đã thay đổi đến mức nào, vui sướng đến mức nào ! Phúc Âm gói trọn trong hai tiếng : Trước đó, đi về làng “bộ mặt ảo não”..., còn sau đó “lòng cháy bừng bừng”.
Bài học Chúa dạy cho ta hôm nay là : đời sống đạo mà không đọc và suy niệm lời Chúa, thì ảo não, buồn sầu, tẻ nhạt. Còn đời sống đạo được thấm lời Chúa, hiểu các việc Chúa làm cho ta, thì vui tươi, hân hoan, sung sướng !
Qua mấy bài về hai phương án cứu độ, ta đã được Kinh Thánh thuật lại cho hiểu Thiên Chúa yêu thương ta dường nào : phương án 1, Chúa ban cho lề luật để tuân giữ mà được sự sống đời đời, song nhận thấy nhân loại không thể giữ trọn được lề luật, nên không ai được công chính hóa, mà hưởng sự sống đời đời, nên Thiên Chúa lại cất công bày ra phương án 2 tuyệt diệu hơn và chắc chắn thành công, là sai chính Con Một xuống cứu độ và chỉ đòi ta tin là được nhập vào Thân mình phục sinh đầy Thần Khí của Đức Giêsu và được xóa sạch mọi tội lỗi, nên công chính, được sự sống đời đời, được làm con Thiên Chúa (mấy lời tóm tắt gọi là để nhắc anh chị em nhớ mấy bài Lời Chúa trước đã trình bày).
Ở đây, khuôn khổ bài này không cho phép chúng ta trích hết các lời Chúa, thuật tất cả những gì Thiên Chúa đã làm vì thương yêu và muốn cứu vớt ta ; chỉ xin trích vài đoạn Kinh Thánh tiêu biểu mà thôi:
+ Với dân Do thái là dân Cựu Ước, vốn ngỗ nghịch, cứng đầu mà Chúa còn nói với họ thế này : “Không phải vì các ngươi là một dân hùng cường, văn minh mà Yavê đem lòng quyến luyến và đã chọn các ngươi... Nhưng vì lòng ta thương các ngươi, nên ta đã giương cánh tay uy quyền làm đủ các dấu thiêng điềm lạ chống lại Pharaô cùng binh tướng họ để cứu các ngươi ra khỏi cảnh làm nô lệ. Và các ngươi biết rằng Thiên Chúa của ngươi là Thần trung tín, Đấng giữ tín nghĩa với những ai yêu mến Người cho đến ngàn đời. Người sẽ chúc lành cho các ngươi, cho các ngươi tăng số, Người sẽ chúc lành cho hoa quả lòng dạ các ngươi và cho hoa quả đất đai : lúa, rượu mộng, dâu tươi, lứa con đàn bò, ổ dê cừu... Ngươi sẽ là kẻ diễm phúc giữa muôn dân. Nơi ngươi sẽ không có đàn bà son sẻ hiếm hoi. Yavê sẽ cất khỏi ngươi mọi thứ bịnh hoạn ; và các thứ ôn thần, dịch tể người Ai cập từng bị, Người sẽ không gửi đến nơi ngươi... Thiên Chúa còn sắp đem ngươi vào đất Hứa, một đất lành lắm khe nước, mạch suối phun trào nơi thung lũng và cả núi non, xứ lúa miến, lúa mạch với nho, vả, lựu, xứ dầu ô liu và mật ong, xứ mà ngươi không phải dè xẻn bánh ăn, nơi mà ngươi không phải thiếu thốn gì, xứ có đá sắt và mỏ đồng... ngươi sẽ ăn và được no nê, và ngươi sẽ vui sướng hân hoan chúc tụng Yavê vì đất lành Người ban cho ngươi...” (sách Thứ luật, 7.7-8.10).
+ Sau đây là bài sấm của tiên tri Ysaia, báo trước về Đức Giêsu sẽ là người Tôi Tớ phục vụ kế hoạch cứu độ của Chúa Cha để loài người được sống và hạnh phúc :
“Ai tin được điều chúng tôi đã nghe ?... Đó là : Trước nhan Thiên Chúa, Ngài đã mọc lên như một chồi cây, không duyên dáng, không oai vệ bắt chúng tôi phải mến chuộng hay nể vì. Ngài bị khinh khi, và là đồ phế bỏ của người đời, chúng tôi chẳng thèm đếm xỉa. Trái lại, chính các bệnh tật chúng tôi, Ngài đã mang, chính các đau khổ chúng tôi, Ngài đã vác... Ngài bị đâm thủng vì những sự ngỗ nghịch của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền nát vì các tội vạ của chúng tôi. Đã giáng xuống Ngài hình phạt đổi lấy bình an cho chúng tôi, và nhờ những vết bầm Ngài chịu, chúng tôi được lành. Chúng tôi hết thảy đã xiêu lạc, như chiên cừu mỗi người quay theo mỗi ngả, nhưng Yavê lại để Ngài phải lụy vì tội vạ chúng tôi. Bị đòn đánh, Ngài chịu đựng không mở miệng than van như cừu im lặng bị dẫn đến lò sát sinh... Ngài đã bị đốn phăng khỏi đất người sống... Nhưng Yavê... đã cho hồi phục kẻ hiến mình làm lễ hi sinh đền tội... Ngài sẽ thấy sự sáng... Ngài sẽ giải án tuyên công nhiều người là chính vì Ngài đã thí mạng mình không màng cái chết... đã mang lấy tội lỗi muôn người và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch” (Ysaia 53.).
Ta thấy đó, vì thương, Thiên Chúa đã sai Con Người đến lãnh hết tội lỗi, vạ phạt, bệnh tật, đau khổ của chúng ta hết thảy lên thân mình Ngài để chịu thay, ta còn gì phải lo, ta được nên công chính, được tha thứ hết..., nay ta chỉ còn biết vui mừng cám đội ơn Chúa và hân hoan chúc tụng Người.
+ Chúa không chỉ là người cha, Chúa còn tự ví mình như người mẹ và thương ta hơn người mẹ thương con : “Trời hãy reo vui ! Đất hãy nhảy mừng, vì Yavê an ủi dân Người, Người chạnh thương những kẻ cùng khốn của Người. Các ngươi đừng nói : Thiên Chúa đã quên tôi, đã bỏ tôi rồi ! Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương với đứa con dạ nó đã cưu mang. Cho dù mẹ có quên con được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên các ngươi. Này Ta đã khắc ghi ngươi trên bàn tay Ta” (Ysaia 49.13-16).
+ Có lúc Chúa còn tự ví với người chồng thương vợ tha thiết : “Đừng sợ ! vì ngươi sẽ không phải thẹn thuồng, vì chưng ngươi sẽ quên nỗi tủi thời niên thiếu... Vì Đấng kết duyên với ngươi là Chúa tạo dựng nên ngươi. Yavê các cơ binh trên trời là Người..., vì ngươi ví như thân gái bị bỏ rơi, lòng dạ tơi bời..., nhưng nào ai nỡ rẫy bỏ người vợ cưới hồi thanh xuân... Có đôi lúc (vì tội lỗi ngươi), Ta đã ngoảnh mặt khỏi ngươi một chốc, nhưng Ta lại đoái thương ngươi bởi tình nhân nghĩa muôn đời. Yavê, Đấng chuộc ngươi đã phán như vậy”.
Trước những lời Chúa khẳng định như thế, sao ta còn lo sợ, cứ nhìn vào chính mình, co rúm lại mà sợ hãi, đáng lẽ ta phải cảm kích đến chảy nước mắt ra vì lòng yêu thương nồng nàn đến vậy của Thiên Chúa và từ nay vui mừng, tin cậy, phó thác cho Người hết lòng. Đừng quay nhìn mình mà buồn sầu, lo lắng, hãy nhìn về Thiên Chúa. Việc cứu rỗi linh hồn ta, nói thật ra là việc của Thiên Chúa hơn là việc của ta. Cứ tin thật mạnh và Người sẽ làm mọi sự để cứu ta, Người sẽ biến sự dữ nên lành.
Chúng tôi không thể trích Kinh Thánh nữa, phải cả mấy trăm trang cũng không đủ. Chúng tôi chỉ xin lấy một câu ở Tin Mừng Thánh Gioan để tóm tắt : “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã ban thí Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài, thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời”. Và Thánh Phaolô hỏi ta rằng : “Nếu Thiên Chúa đã không tha cho chính Con của Người, nhưng đã thí ban Ngài chịu chết vì chúng ta hết thảy, làm sao Người còn tiếc gì mà không ban muôn vàn ơn khác cho ta ?” (Rm 8.32), không tiếc Con quí tử Người, Người lại tiếc các ơn nhỏ mọn ví như ba cái lẻ tẻ sao ?
Tóm lại, đọc lời Chúa, suy niệm công việc, tình thương Chúa làm mà sách Thánh thuật lại, chúng ta sẽ như hai môn đệ làng Em-mau : lòng bừng bừng nóng cháy, cuộc đời sống đạo sẽ hân hoan, hạnh phúc, trên môi miệng lúc nào cũng tươi cười, và chỉ còn biết chúc tụng, tạ ơn Chúa, rồi như trẻ thơ, phó thác để Chúa lo mọi sự cho ta.
Tích truyện
Bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt : cánh tay trái của Chúa vẫn còn đóng vào thánh giá, còn cánh tay phải thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành. Gốc tích sự lạ ấy như sau : Một hôm, có một tội nhân đến xưng tội với linh mục chánh xứ ngay dưới tượng thập giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngoài việc đền tội nặng, linh mục còn hăm dọa nhiều điều. Người xưng tội buồn rầu, sợ hãi... Xong ít lâu, chứng nào tật đó. Một lần kia, cha ngăm đe :
- Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông !
Mấy tháng trôi qua, lại lần nữa, tội nhân ấy đến xin tha tội. Nhưng lần này, cha dứt khoát :
- Ông đừng đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa !
Nhưng lạ lùng thay, khi cha vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ tượng thánh giá. Bàn tay phải của Chúa bỗng rời cây thập giá và ban phép lành xá tội cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm với ông :
- Sao con lại không xá tội cho người này ? Chính Ta là người đã đổ máu chịu chết thay cho nó, chứ không phải con !
Và tiếp theo là lời từ thánh giá nói với tội nhân :
- Ta vẫn tha tội cho con, con hãy đi về bình an, và cố gắng đừng phạm tội nữa !
Từ đó, bàn tay phải của Chúa treo trên thập giá cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi loài người đến để ban ơn tha thứ, vì chính Chúa đã gánh lấy tất cả tội lỗi vào thân mình mà chịu đóng đinh chúng vào thập giá, để đổi lấy bình an và hạnh phúc cho loài người.
[Hãy hát một bài tạ ơn tình Chúa yêu ta. Ví dụ : “Xin tri ân, xin tri ân...”, hoặc : “Con xin dâng Ngài lòng cảm mến vô biên, con xin dâng Ngài ôi trái tim dịu hiền...”]
Links:
[1] https://www.thanhlinh.net/node/6597