ĐỊNH KIẾN
Con người được sinh ra đã khó, nhưng để tồn tại trong thế giới này lại càng khó hơn. Để một đứa trẻ ra đời, người cha người mẹ đã phải khổ cực biết chừng nào, nhưng làm cho đứa trẻ ấy lớn lên, trở thành người và tồn tại được trong xã hội là cả một vấn đề.
Như vậy, xã hội là nơi con người tồn tại và được lớn lên, đó cũng chính là một trong những nơi quyết định sự sống còn của họ. Rất khó để tồn tại với những cá thể bị xã hội loại bỏ, bị mọi người khinh ghét. Bất kỳ một tổ chức, hay cộng đoàn nào cũng vậy, luôn luôn có những con người, những cá vị bị “tẩy chay”.
Con người được sinh ra trong thế giới và được phát triển trong thế giới. Nếu ra khỏi quĩ đạo đó, tất yếu họ sẽ bị hủy diệt. Thế nhưng, đâu là chuẩn mực chung nhất có thể quyết định sự tồn tại của nhân loại? Phải chăng đó là danh vọng? địa vị? tiền bạc? sắc đẹp? chức vị? quyền lực....?
Ở trong thế giới sự thiện, thì chính sự công chính quyết định vận mạng con người. Nhưng giữa một thế giới sa đọa bởi tội lỗi, hận thù, thì cái làm nên lịch sử đời người không tùy thuộc vào tài đức nữa, bởi nơi đó cán cân công lý đã không còn, chỉ có đồng tiền mới là sức mạnh tạo dựng bệ phóng vững chắc của họ trong xã hội.
Nếu vậy, nhân loại là kẻ đáng thương hơn bao giờ hết. Họ được đưa vào thế giới rồi bị chính thế giới đó làm chủ. Trong khi theo ý định thánh thiện nguyên thủy của Thiên Chúa, Ngài trao cho con người quyền làm chủ, cai quản toàn bộ vạn vật. Nói vậy, chính con người đã tự thay đổi vận mạng đời mình bằng việc đảo lộn mục đích cuộc sống. Loại bỏ Thiên Chúa, cung phụng bạc tiền.
Có một câu thơ bất hủ trong dân gian:
“Cười đi, thiên hạ đồng tình
Khóc than, bạn sẽ một mình khóc than!”
Phải, dường như tất cả những ai bước đi trên con đường của Đức Giêsu, đều là người lội ngược dòng, Kêu gọi hòa bình, sống công chính, thực thi bác ái, yêu thương, chia cơm sẻ áo… những việc làm đó rất hữu ích nhưng chẳng mấy ai quan tâm. Người thì bận rộn, kẻ thì bàng quang, người phải lo trách nhiệm gia đình. Làm thế nào để có thể chỉ sống mà chăm lo cho kẻ khác. Nhưng đó cũng mới chỉ là một vấn nạn nhỏ. Việc qui phục, đón nhận giá trị một người càng khó khăn hơn đến chừng nào. Có những khó khăn đến tự bản thân chủ thể, nhưng có những khó khăn đến từ ngoài bản thân họ. Đó chính là những định kiến, thành kiến của xã hội. Nó chính là con dao hai lưỡi, hủy hoại sự tồn tại của nhân loại.
Đức Giêsu là một nhân vị thực thụ trong xã hội Do Thái, Ngài cũng không chệch ra khỏi con đường oan nghiệt đó. Khi tuyên bố ứng nghiệm những lời đã được ghi trong sách thánh: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.” (Lc 4,21), lập tức Ngài bị mọi người chỉ trích, phê phán. Họ xầm xì, bàn tán về thân thế của Ngài. Họ không chấp nhận con của một ông Giuse thợ mộc nghèo nàn làng quê họ, có thể trở thành vị tiên tri loan báo lời Thiên Chúa được: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22) Hiểu tất cả thâm ý đó, Đức Giêsu dõng dạc giải thích: “Tôi bảo thật các ông, không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4, 24)
Đức Giêsu không được chấp nhận không phải vì Ngài không xứng đáng, kém tài, vô dụng, nhưng là vì định kiến xã hội Ngài sống gán cho Ngài án mác bị xem thường, khinh miệt. Cũng vậy, nhân loại trong xã hội, người này từ khước người khác, kẻ này phỉ báng kẻ nọ, cũng chỉ vì định kiến, ác cảm cá nhân. Nhưng nếu điều đó xảy ra với con người trong xã hội loài người thì có thể chấp nhận được, đàng này là Con Thiên Chúa, là Đấng Công Chính, là Vua Công Bình thì làm sao có thể?
Lạy Chúa, cùng Ngài lật lại trang Kinh Thánh của ngày Ngài vào hội đường công khai rao giảng, trước những phản ứng gay gắt của công chúng, con lại càng hiểu ra tình thương cao cả mà Thiên Chúa đã dành cho con. Phải, Ngài đã yêu thương hết mình, sống hết mình và chia sẻ hết mình kiếp người với con. Không còn nơi sâu thẳm tận cùng nào của kiếp sống con mà Ngài không trải qua, những đau khổ cùng cực, những phỉ báng bất công, những ác cảm cay nghiệt… ngay cả tội lỗi con, Ngài cũng đã gánh lấy hết vào thân thể. Đối diện với chúng, chấp nhận chúng và thánh hóa chúng. Tất cả là vì yêu con, là muốn sống cho con, là muốn chứng minh tình yêu với con. Vậy mà, sao mỗi lần con gặp xỉ vả, khinh miệt, con lại ủ rũ ưu sầu, oán trách Chúa. Những giọt nước mắt ích kỉ của con cứ mãi làm phiền lòng Ngài. Xin giúp con, có được trái tim như Chúa, có được tinh thần như Chúa, có được niềm tin như Chúa, để mà kiên vững tồn tại giữa đời, mặc cho đời loại bỏ lên án, con vẫn luôn tin rằng đã có Thiên Chúa đón nhận con.
M. Hoàng Thị Thùy Trang.