Chúa Giêsu là loại Thiên Sai nào?
The Word Among Us – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Vào một thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ hai câu hỏi quan trọng. Câu đầu tiên “Người ta nói Thầy là ai?” không quá khó để trả lời, tất cả họ đều hiểu những gì mọi người đang nói về Chúa Giêsu. Nhưng sau đó là một thử thách thực sự “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8:27, 29).
Chúa Giêsu không hỏi những câu hỏi này chợt nảy ra vào ngày hôm đó. Ngài đã dành nhiều năm cầu nguyện, nghiền ngẫm Kinh Thánh Do Thái và tự hỏi chúng về bản thân “Mọi người nói tôi là ai? Và tôi nói tôi là ai?” Ngay từ thời thơ ấu, Chúa Giêsu đã biết rằng mình khác với mọi người, nhưng chỉ khi Ngài đưa những câu hỏi này để cầu nguyện Ngài mới hiểu ra mình thực sự là ai.
Chúa Giêsu là ai? Có thể bị cám dỗ để bàn luận qua loa những câu hỏi này. “Chúa Giêsu là Thiên Chúa! Ngài luôn biết rằng Ngài là Ngôi thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa”.
Nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ là Thiên Chúa ẩn mình trong một cơ thể, hoàn chỉnh với từng chút kiến thức về toàn thể vũ trụ - và về bản thân Ngài - từ ngày sinh ra. Ngài cũng thực sự là một con người và giống như tất cả người nam và người nữ, Ngài vẫn phải tìm hiểu về thế giới xung quanh mình. Ngay cả Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu “tiến bộ trên đường khôn ngoan” khi Ngài lớn lên và trưởng thành (Lc 2: 52). Vì vậy, mặc dù không ngừng là Thiên Chúa và trong khi có một ân sủng đặc biệt để giúp Ngài nhận ra mình là ai, Chúa Giêsu vẫn phải lớn lên trong sự hiểu biết. Đó là cách duy nhất để Ngài có thể giống chúng ta” về mọi mặt nhưng không phạm tội” (Dt: 4:15).
Vậy làm thế nào Chúa Giêsu hiểu được Ngài là ai? Câu trả lời đơn giản là Ngài đã học được điều này từ Cha trên trời. Nhưng điều đó như thế nào? Vâng, vì một điều Ngài đã học được về bản thân khi đọc Kinh Thánh và nghe Kinh Thánh được công bố trong hội đường. Chắc hẳn Ngài cũng đã nghe những câu chuyện về sự ra đời và thuở ấu thơ của mình từ Maria và Giuse. Chúng ta có thể chắc chắn rằng Ngài đã mang tất cả những điều này vào cầu nguyện và xin Cha Ngài mở lòng và dạy dỗ Ngài.
Và kết quả thật tuyệt vời. Không một giáo sĩ Do Thái hay thầy tư tế hay nhà thông luật nào trong toàn bộ Ít-ra-en đã từng giải thích Kinh Thánh Do Thái theo cách mà Chúa Giêsu đã làm. Với tâm trí và trái tim không vướng vào đám mây tội lỗi và với mối quan hệ đặc biệt với Cha trên trời, Chúa Giêsu hiểu Ngài là ai trong mối quan hệ với Chúa Cha và với dân Ít-ra-en - cũng như về sứ mệnh quan trọng của Ngài.
Tháng này, chúng ta muốn noi gương Chúa Giêsu khi Ngài đưa các câu hỏi của mình vào lời cầu nguyện. Chúng ta muốn đi sâu vào lời của Thiên Chúa và phát triển trong sự hiểu biết của chúng ta về những lời tiên tri chỉ về Chúa Giêsu. Chúng ta cũng muốn cầu xin Cha trên trời mở trí cho chúng ta về những chân lý thiêng liêng về Chúa Giêsu là ai và Ngài đến để làm gì cho chúng ta - như Chúa Giêsu đã làm.
Một dân tộc khao khát Đấng Thiên sai. Trong nhiều thế kỷ trước khi Chúa Giêsu sinh ra, người dân Do Thái đã mong mỏi Thiên Chúa gửi một người nào đó đến để giải cứu họ.
Họ nhớ lại thời vua Đavít và con trai ông là Salômôn khi Giêrusalem được thành lập, Đền thờ được xây dựng và Ít-ra-en là một quốc gia tự do và có chủ quyền. Nhưng rồi rắc rối bắt đầu. Đầu tiên đất nước chia đôi. Sau đó, cả hai vương quốc phía bắc và phía nam bắt đầu sa vào tội lỗi và thờ ngẫu tượng trong một thời gian dài. Chẳng bao lâu sau, dân chúng đã bị dày xéo bởi các đạo quân ngoại giáo và bị đưa đi lưu đày. Sau khi họ quay trở lại nhiều thập kỷ sau đó, họ liên tục phải phục tùng sự cai trị của nước ngoài. Đầu tiên là người Ba Tư rồi người Hy Lạp và sau đó là người La Mã.
Nhiều người Do Thái vào thời Chúa Giêsu đã cầu nguyện với tác giả Thánh vịnh “Đến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài còn lánh mặt? Ngài lánh mặt mãi sao?” (89: 47). Họ sẽ nhớ lại những lời hứa của Chúa sẽ gửi một Đấng Thiên Sai đến để cứu họ. “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta, rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.” (89: 4-5). Chắc họ đã cầu xin “Khi nào Ngài sẽ ứng nghiệm những lời này, Ôi lậy Chúa?”. Họ không biết rằng Đấng Thiên Sai mà họ khao khát đã ở cùng họ, sống bằng nghề thợ mộc ở làng Nazareth.
“Ngài Đã Xức Dầu Cho Tôi”. Phần lớn Chúa Giêsu tránh công khai gọi mình là Đấng Thiên Sai. Ngài biết rằng hầu hết các hy vọng của dân chúng tập trung vào một nhà lãnh đạo chính trị hoặc tôn giáo, người sẽ đẩy lùi người La Mã khỏi Ít-ra-en và làm sạch Đền thờ khỏi sự băng hoại. Vì vậy, thay vì trực tiếp gọi mình là Đấng Thiên Sai, Chúa Giêsu đã dạy dỗ và hành động theo những cách cho mọi người thấy Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đã đến để làm gì.
Thánh Luca cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ công khai bằng một bài giảng trong hội đường ở quê hương của Người tại Nazareth. Tại đó, Ngài chủ ý mở Kinh Thánh trong I-sai-a 61, ở đó Ngài đọc một đoạn mà nhiều người Do Thái thời của Ngài xem như một lời tiên tri về Đấng Thiên Sai.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4: 18- 19),
“Ngài đã xức dầu cho tôi”. Những từ đó có ý nghĩa đặc biệt đối với dân chúng vì từ “thiên sai” trong cả tiếng Hy Lạp (Christos) và tiếng Do Thái (Mashiach) có nghĩa là “đấng được xức dầu”. Vì vậy, Chúa Giêsu hẳn đã làm mọi người vô cùng cảm kích khi Ngài bắt đầu bài giảng của mình bằng cách nói “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4: 21). Lúc đầu, người ta “ngạc nhiên” rằng người con trai của một ông thợ mộc này có thể giảng Kinh Thánh với sự khôn ngoan như vậy (4:22)!
Nhưng sau đó Chúa Giêsu tiếp tục nói về việc Đấng Thiên Sai này sẽ bị chính dân tộc mình từ chối tại quê hương của mình nhưng sẽ được những người không phải là dân Chúa chấp nhận (Lc 4: 23-27). Theo Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai sẽ đến không chỉ cho dân Ít-ra-en mà còn cho toàn thế giới và nó đang xẩy ra ngay trước mặt họ! Rõ ràng đây không phải là kiểu Đấng Thiên Sai mà họ đang mong đợi. Vì vậy không có gì lạ khi họ cố ném Ngài xuống một vách đá (4: 29-30)
Một Đấng Thiên Sai không trông đợi. Mặc dù Chúa Giêsu không thường công khai tuyên bố mình là Đấng Thiên Sai, nhưng nhiều lần khác hành động của Ngài đã chỉ ra sự thật này. Khi Phêrô xưng tụng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu đã không sửa ông. Trên thực tế, Ngài đã khen ngợi ông. “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16:16, 17). Nhưng sau đó khi Chúa Giêsu tiếp tục nói với các môn đệ rằng với tư cách là Đấng Thiên Sai, Ngài sẽ bị từ chối và bị xử tử, Phêrô đã trở nên khó chịu và trách móc (16: 22). Một lần nữa, giống như sự việc xảy ra trong hội đường ở Nazareth, viễn tượng của Chúa Giêsu về Đấng Thiên Sai hoàn toàn khác với những gì người ta hay ngay cả những môn đệ thân cận của Ngài đang mong đợi.
Tuần lễ cuối cùng của Chúa Giêsu đầy biểu tượng của Đấng Thiên Sai. Việc Ngài vào thành Giêrusalem trên một con lừa nhắc nhở dân chúng về một lời tiên tri trong Cựu Ước về một vị vua được xức dầu sẽ vào thành thánh trong cách tương tự (Mt 2: 11-5; Dcr 9: 9).
Cuối tuần đó, Chúa Giêsu thực thi quyền hành trên Đền thờ bằng cách đuổi những người đổi tiền và tuyên bố rằng Ngài sẽ xây dựng lại Đền thớ. Một lần nữa, Chúa Giêsu đang ứng nghiệm một lời tiên tri về việc Chúa đến Đền thờ và thanh tẩy những người Lêvi phục vụ ở đó (Ml 3: 1-3). Tuy nhiên, cách thanh tẩy Đền thờ của Ngài không phù hợp với mong đợi của các nhà lãnh đạo. Mát-thêu cho chúng ta biết rằng “những kẻ mù lòa, què quặt đến với Người trong Đền Thờ”, (21:14). Các thầy tư tế cả và kinh sư được biết đến là người đã ngăn không cho những người có khuyết tật vào Đền thờ vì họ bị coi là ô uế - nhưng Chúa Giêsu đã chào đón họ. Ngài thậm chí còn chữa lành cho họ
Hết lần này đến lần khác, Chúa Giêsu đã cho mọi người thấy Ngài là Đấng Thiên Sai thật sự - nhưng một Đấng Thiên Sai khác biệt đến nỗi họ không thể thấy Ngài đáp ứng lời kêu cầu cứu rỗi của họ như thế nào.
Bạn nói Chúa Giêsu là ai? Tất nhiên chính Chúa Giêsu biết Ngài là ai là không đủ. Ngài muốn các môn đệ chấp nhận Ngài là Đấng Thiên Sai của họ - không chỉ chấp nhận Ngài mà còn phải cảm nghiệm quyền năng của Ngài với tư cách là Đấng Thiên Sai để mang lại sự giải cứu, sự tha thứ và vương quốc của Cha Ngài cho dân Ít-ra-en. Đó cũng là những gì Chúa Giêsu muốn cho chúng ta. Với tư cách là Đấng Thiên Sai, Ngài đã giải thoát cho chúng ta khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta một cuộc sống sung túc trong vương quốc của Ngài. Những chân lý thật đáng kinh ngạc này sẽ khiến chúng ta cảm động, như đã làm cảm động các môn đệ của Ngài đi theo Ngài bất kể chúng dẫn chúng ta đi đâu.
Tôi nói Chúa Giêsu là ai? Đây là một câu hỏi mà chúng ta nên tự hỏi mình thường xuyên khi chúng ta lớn lên trong cuộc sống của mình với tư cách là những môn đệ. Trong tuần tới, hãy đọc những đoạn Kinh Thánh sau đây để cầu nguyện và cầu xin Thiên Chúa cho bạn thấy sâu sắc hơn điều đó có nghĩa Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai của bạn, là Vua của bạn, Đấng đã đến để giải thoát bạn.
I-sai-a 61: 1- 2
Luca 4: 16- 30
Mát-thêu 16: 13- 23
Tất nhiên bạn có thể có một số câu hỏi khác. Chúa Giêsu có thực sự biết Ngài là Thiên Chúa? Ngài có biết rằng Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết? Chúng ta sẽ trả lời những câu hỏi đó trong hai bài tiếp theo./.
****************
Một phép lạ dưới chân thập giá
Tác giả: Wendy Le – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Tôi đã ở đó, đang quỳ gối trước cây thánh giá dài hơn 1 mét rưỡi trong phòng cầu nguyện của cha mẹ tôi, nhưng đây không phải là giờ cầu nguyện bình thường. Tôi đã có trong tay con dao sắc bén nhất mà tôi có thể tìm thấy.
Và lời nói của tôi thậm chí còn sắc bén hơn. “Giêsu, ông là lý do cho nỗi đau của tôi”.
Điều gì khiến một người cảm thấy cay đắng và tuyệt vọng đến như vậy? Làm sao mà tôi đã lâm vào hoàn cảnh này? Không lâu trước kia dường như tôi đã có tất cả mọi thứ - một gia đình gắn bó, cha mẹ yêu thương, bạn bè, một ngôi nhà lớn và tiền để mua bất cứ thứ gì tôi muốn. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lấy bằng đại học, kết hôn với người đàn ông tôi yêu và bắt đầu một cuộc sống gia đình. Ngay cả đời sống thiêng liêng của tôi cũng có vẻ tốt: tôi đi lễ hàng tuần với gia đình và biết tất cả về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài.
Mọi thứ đều sụp đổ. Nhưng bên dưới nó, tất cả mọi thứ đều trở nên gay gắt. Anh em tôi đã dính líu với những người xấu. Bố mẹ tôi vật lộn trong cuộc hôn nhân. Và mặc dù cuộc sống của tôi dường như đang diễn ra theo đúng kế hoạch, tôi đã khóc một mình khi ngủ vào ban đêm – cô đơn, chán nản và trống rỗng.
Sau đó bạn trai tôi chia tay. Mọi kế hoạch của tôi đều tan vỡ. Tôi bắt đầu trải qua những giai đoạn tức giận gay gắt, cay đắng, bối rối và vô vọng. Tôi đã đổ lỗi cho bất cứ ai mà tôi có thể tìm thấy – bạn trai cũ, gia đình tôi, bạn bè của tôi và hơn hết là bản thân tôi. Tôi bắt đầu tự cô lập mình khỏi tất cả những người quan tâm đến mình. Và để làm dịu cơn đau, tôi bắt đầu uống rượu quá mức.
Khi tôi vượt qua cú sốc ban đầu về cuộc chia tay, tôi đã cố gắng đặt cuộc sống tan vỡ của mình trở lại với bạn trai như là ưu tiên hàng đầu. Mong muốn giành lại anh ta, tôi tập trung vào ngoại hình của mình. Tôi tập thể dục và ăn kiêng quá nhiều đến nỗi tôi bị rối loạn ăn uống. Tôi đã đi mua sắm thoải mái, mua quần áo và trang sức đắt tiền để có thể cho người đàn ông đó thấy những gì anh ta đang mất mát. Nhưng tất cả những gì tôi có được là món nợ trị giá mười ngàn đô la và một cảm giác khốn khổ ngày càng sâu sắc.
Tôi sợ hãi khi thức dậy mỗi sáng. Gánh nặng của mọi thứ là quá nặng nề. Tôi đã đi đến quyết định là cuộc sống của tôi đơn giản là không còn đáng sống nữa.
“Cho tôi xem”. Vì vậy, tôi đến trước cây thánh giá lớn đó trong phòng cầu nguyện với quyết tâm kết liễu cuộc đời mình. Có điều gì đó trong tôi đã hy vọng có một lý do để sống bởi vì tôi thấy mình không chỉ buộc tội Chúa Giêsu mà còn cả gan nói về quyết định của tôi.
“Nếu Ngài thực sự yêu thương con, Ngài nên cho con biết Ngài là ai”.
Không có gì. Tôi nắm chặt con dao hơn một chút và đặt lưỡi dao vào cổ tay của mình để cắt gân máu.
Tôi không thể làm điều đó. Không kiểm soát được tiếng nức nở, tôi ngã vật ra sàn. Tôi không thể nhận được bất cứ điều gì đúng ngay cả việc làm này. Tôi không có đủ can đảm để làm theo.
Khi tôi nằm khóc dưới chân cây thập giá, tôi cảm thấy một luồng sáng trắng chiếu xung quanh tôi, chiếu sáng căn phòng tối. Ngay cả khi nhắm mắt tôi vẫn có thể nhìn thấy nó. Tôi cũng cảm thấy một sự ấm áp mà tôi chưa bao giờ cảm thấy trước đây và trong tim tôi, tôi nghe thấy một giọng nói:
Wendy, Ta yêu con! Ta đã luôn luôn yêu con. Ta đã yêu con với một tình yêu vĩnh cửu. Ta đã cần con trước khi trái đất hình thành. Ta yêu con. Ta yêu con.
Lòng tôi bắt đầu nhẹ hơn khi những lời này lướt qua tâm trí tôi, và sức nặng của nỗi đau giảm dần. Tôi cảm thấy được an ủi và được quý trọng. Một sự tĩnh lặng không thể giải thích nổi đã dâng trào trong tôi. Ý nghĩ tự tử đã tan biến và thay vào đó tôi tràn đầy hy vọng. Tôi muốn sống!
Chúa Giêsu Sống! Đây là lần đầu tiên tôi trải nghiệm sự hiện diện của Chúa Giêsu và tôi có thể thành thật nói rằng tôi đã gặp Ngài như là Đấng Cứu Rỗi của tôi - Ngài đã cứu sống tôi theo đúng nghĩa đen! Đêm đó, Chúa Giêsu đã trở thành người mà tôi biết chứ không phải là người mà tôi chỉ nghe nói đến.
Trong những ngày tháng sau đó, tôi thấy cuộc sống của mình được xây dựng lại từ dưới lên. Tôi không còn thờ ơ với lòng trắc ẩn hay là đả kích anh chị em của mình nữa. Tôi cảm thấy sự bình yên sâu sắc và tình yêu mà tôi hằng mong ước khi tôi khóc một mình khi ngủ. Trên tất cả, tôi cảm thấy hy vọng. Thay vì sợ hãi mỗi buổi sáng, tôi bắt đầu mỗi ngày mới với cảm giác rằng một điều gì đó tuyệt vời sắp xảy ra.
Tôi cũng thấy mình khao khát được tham dự Thánh lễ. Tôi đã không thấy nó nhàm chán hay lập đi lập lại như trước đây. Tôi muốn ở với Chúa Giêsu và hiểu rõ hơn về Ngài. Nếu Ngài có thể làm cho tôi cảm thấy hy vọng và bình yên như vậy trong một lúc thì Ngài có thể còn có nhiều hơn thế nữa.
Tôi tìm kiếm Ngài trong Kinh thánh và Kinh Thánh bắt đầu trở nên sống động trước mắt tôi. Một lần nữa tôi tìm thấy những câu chữ đã củng cố nhận thức của tôi về việc Chúa yêu tôi đến nhường nào, thậm chí còn làm tôi say mê. “Chúa biết cả khi con đứng con ngồi. . . Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng”(Tv 139: 2, 14). Một Thiên Chúa dường như xa vời - đến mức không tồn tại thực sự - đang ở rất gần, đang chuyển động và hành động trong cuộc sống của tôi hàng ngày.
Trở thành môn đệ của Ngài. Ngay cả với sự bình an mới được tìm thấy này, những thử thách không biến mất một cách kỳ diệu. Tha thứ cho người bạn trai là một quá trình dài và khó khăn. Và khi Chúa cho tôi thấy rằng tôi cũng đã làm tổn thương người đàn ông này và cần cầu xin sự tha thứ của anh ấy, tôi đã mất hai năm để làm điều đó. Chứng ăn uống vô độ và nghiện mua sắm cũng không biến mất trong một sớm một chiều. Với sự giúp đỡ của gia đình, tôi đã có thể tham gia một phòng tập thể dục, trở lại ăn uống lành mạnh và trả hết nợ.
Sự chấp nhận bản thân và sự bất an vẫn là cuộc chiến hàng ngày, nhưng tôi đang học cách thay thế quan điểm cũ về bản thân bằng sự thật về cách Chúa nhìn tôi. Thay vì tin vào những lời nói dối như “Tôi mập, không đủ thông minh, không đủ trí tuệ hoặc không đủ xinh đẹp”, tôi đã bắt đầu chống lại chúng bằng cách đồng ý với quan điểm của Thiên Chúa về tôi, “Tôi mạnh mẽ, được ban ơn lành và xinh đẹp.” Lúc đầu tôi thấy thật ngượng ngùng khi nói những điều này nhưng khi tôi bền bỉ thì những lời nói dối đang mất dần đi và tôi ngày càng tin tưởng là một người con gái yêu dấu của Chúa.
Điều đã giúp tôi rất nhiều là tham gia một nhóm cầu nguyện địa phương có nhiều người trẻ, những người đang theo đuổi mối quan hệ sâu sắc hơn với Chúa Giêsu và cam kết cùng nhau phát triển trong đức tin của họ. Với sự giúp đỡ của những người bạn này, tôi đã cảm thấy Chúa Thánh Thần thay đổi cách tôi suy nghĩ và hành động. Và tôi đã bắt đầu ước mơ được chia sẻ tin tức về một Đấng Cứu Rỗi đang sống và có thật với mọi người mà tôi gặp.
Bây giờ trong công việc của tôi tại một cơ sở dành cho những người trẻ gặp rủi ro, tôi thấy được sự khao khát và trống rỗng của họ giống như tôi đã từng cảm thấy. Mỗi ngày, tôi muốn sống theo cách khuyến khích các học viên của mình hướng đến một Đấng Cứu Rỗi có thật, trung thực và sống động- Chúa Giêsu mà tôi đã gặp dưới chân cây thập giá./.