CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu. Sách dầy 600 trang. Giá $15 USD kể cả cước phí trong Hoa Kỳ.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
thanhlinh.net
Lời Mở Đầu
Khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các môn đệ trong căn phòng trên lầu vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Phêrô đứng lên giải thích hiện tượng khác thường đó cho những người thuộc mọi quốc gia hiện diện trong các đoàn hành hương tụ họp mừng lễ. Ngày đó, Giáo Hội sơ khai hết sức vui mừng, hân hoan và nồng nàn hăng say đến độ một số người chứng kiến nói các tông đồ say rượu. Trái lại Thánh Phêrô đáp lại rằng “họ không say đâu.” Việc này xảy ra đúng như lời ngôn sứ Joel đã tiên tri trong Sách Thánh: đó là thời điểm Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Linh của Ngài để tuyên bố việc tôn phong Con của Ngài là Chúa Giêsu chịu khổ hình thập giá nhưng lúc này đã phục sinh và được tôn vinh là Đấng Thiên Sai.
Hai ngàn năm sau, vị kế nhiệm Thánh Phêrô thứ hai trăm sáu mươi ba cũng đã thực hiện y như vậy: Trong hàng loạt bài giảng thuyết, ngài mở rộng cửa cho thấy mọi hồng ân Chúa Thánh Linh ban cho Giáo Hội. Theo gương Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng theo sát Sách Thánh để giải thích những điều chúng ta thụ nhận qua Phép Rửa và những điều chúng ta cảm nghiệm trong cuộc sống hằng ngày.
Đức Giáo Hoàng thường trưng dẫn Sách Thánh để diễn đạt những điều ngài trình bày; nếu không giống như Thánh Phêrô trong Công Vụ Tông Đồ thì ít nhất cũng tương tự các Giáo Phụ trong Giáo Hội thời sơ khai. Các ngài đã lấy chất liệu từ Phúc Âm để kết thành những lời giảng huấn. Vì thế những bài giáo lý của Đức Gioan Phaolô II hướng về mục vụ và dễ đọc. Chính những bài giáo lý này dẫn tới chiêm niệm và cầu nguyện.
Mặc dầu không nặng kỹ thuật như Tông Huấn vĩ đại về Chúa Thánh Linh, Dominum et Vivificantem, của ngài, tuy vậy dựa trên Sách Thánh về Chúa Thánh Linh, những đề tài huấn giáo đó mênh mang thần học, từ lời giải thích giản dị những biểu tượng Phúc Âm về Chúa Thánh Linh đến đề tài tranh luận phức tạp liên quan tới tín điều (Chúa Thánh Linh) Bởi Chúa Con mà ra (Filioque) vốn từng chia rẽ các Giáo Hội Đông và Tây Phương suốt nhiều thế kỷ. Đức Gioan Phaolô II nói cuộc tranh cãi lịch sử về Filioque thực sự không còn là trở ngại cho việc hiệp nhất với các Giáo Hội Chính Thống.
Có thể lãnh vực thần học thiếu sót nhất của Phương Tây là vấn đề Chúa Thánh Linh. Một số năm trước đây một trong những học giả danh tiếng nhất về Sách Thánh thuộc Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ than phiền rằng công cuộc khảo cứu về Chúa Thánh Linh được thực hiện quá ít. Gần đây, các học giả đã tích cực lấp khoảng trống này. Và những bài giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II góp phần đáng kể vào công trình này. Nhưng xuất sắc nhất là suy tư của ngài về Chúa Thánh Linh sâu rộng và mang tính chất bách khoa. Ngài khảo sát tỉ mỉ sự liên hệ của Chúa Thánh Linh – dầu rằng một vài trường hợp chỉ sơ lược - với đời sống toàn thể Giáo Hội, với cuộc sống mỗi cá nhân Kitô hữu, với các Nhiệm Tích, với niềm hy vọng cánh chung của Giáo Hội, và với thừa tác vụ.
Tôi (linh mục George T. Montague, S.M.) xin nhắc quí bạn đọc một điều: Quí bạn sẽ thưởng thức tối đa sách này nếu quí bạn nhấm nháp từ từ tựa như ly rượu đặc biệt thay vì vội vàng cạn hết một hơi. Nhưng ích lợi nhất của sách này là dùng làm chất liệu cầu nguyện.
Lm George T. Montague, S.M.
St. Mary’s University, San Antonio, Texas
GHI CHÚ
Những chữ viết tắt tên các văn kiện dùng trong sách này:
AG Ad Gentes (Hiến Chế về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội)
DViv Dominum et Vivificantem (Thiên Chúa và là Đấng Ban Sự Sống) (Tông Huấn về Chúa Thánh Linh)
LG Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội)
MD Mulieris Dignitatem (Hiến Chế về Phẩm Giá và Ơn Gọi của Phụ Nữ)
PO Presbyterorum Ordinis (Sắc Lệnh về Chức Vụ và Đời Sống các Linh Mục)
RM Redemptoris Mater (Mẹ Chúa Cứu Thế)
DS những trích dẫn của tác giả Denzinger-Schonmetzer
*
Số thứ tự:
Nguyên bản không ghi số thứ tự các chủ đề và tiểu đề, chúng tôi mạn phép thêm vào để dễ theo dõi, thí dụ:
Phần I. Chúa Thánh Linh Ngự Đến (“Phần I” được thêm để ghi số thứ tự chủ đề)
1. “Tôi Tin Kính Chúa Thánh Thần” (số “1” được thêm để ghi số tiểu đề).
*
3. Nhân xưng đại từ:
- Ngài, viết hoa, khi nói về Thiên Chúa (Ba Ngôi), Chúa Cứu Thế, Chúa Thánh Linh;
- Người, viết hoa, khi nói về Đức Maria.
*
4. Danh xưng đại từ về Đức Gioan Phaolô II, tác giả những bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi:
“Chúng ta” khi ĐTC dùng “We”,
“ Cha” hoặc “cha” khi ĐTC dùng “I” trong bản Anh ngữ.
*
5. “Buổi Gặp Chung” thay vì “Buổi Triều Yết Chung”.
*
6. Những trích dẫn Phúc Âm hoặc Thánh Thư (nguyên văn, đôi khi không nguyên văn) được trình bày bằng chữ nghiêng, thí dụ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:22).
*
7. Những chữ viết tắt:
a) “Jn” Tên của Thánh Sử Gioan viết tắt theo cách dùng trong các Sách Phúc Âm bằng Anh ngữ là “Jn” thay vì “Gn” hoặc “Ga” như thí dụ ở trên.
b) “tc.” Ghi chú xuất xứ dẫn chiếu mà không nguyên văn là “tc.” có nghĩa: “tham chiếu, so với, đối chiếu, tham khảo, xin đọc, phỏng theo, v.v.” để chuyển “cf. = confer (Latin), compare (English)”, thí dụ: ... - Đức Maria thụ thai Chúa Giêsu do việc làm của Chúa Thánh Linh (tc. Lk 1:35; Mt 1:18) từ ... – Mary who conceived Jesus by the action of the Holy Spirit (cf. Lk 1:35; Mt 1:18).
*
8. Phúc Âm và Sách Thánh, tất cả các từ ngữ về Phúc Âm và Sách Thánh đều ghi là Phúc Âm hoặc Sách Thánh (viết chữ hoa) không phân biệt danh từ hoặc tĩnh từ.
*
9. Một số danh xưng khác
Tên riêng cá nhân, cộng đoàn (nói về tín hữu) hoặc địa danh vốn quen theo lối viết quen thuộc trong các Sách Phúc Âm và Phụng Vụ tiếng Việt (phiên âm) như: Phêrô, Phaolô, Luca, Gioan, v.v.
Tên quốc gia, địa danh hoặc người ta như: Israel hoặc Do Thái, Roma hoặc Lamã, Hy Lạp, v.v.
Ngoài ra, chúng tôi dùng cách viết danh xưng và địa danh theo bản Anh ngữ.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
“Tôi Tin Kính Chúa Thánh Thần”
Từ các đề tài về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể cứu độ chúng ta, trong những suy niệm kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ bây giờ chúng ta chuyển sang đề tài tuyên xưng lòng tin vào Chúa Thánh Linh. Chu kỳ “Kitô học” nối tiếp bằng chu kỳ “Thánh Linh học.” Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ diễn tả điều này cách chính xác bằng lời tuyên xưng: “Tôi tin kính Chúa Thánh Thần.”
Kinh Tin Kính Công Đồng Nicene-Constantinopolitan khai triển tín điều này chi tiết hơn: “Tôi tin kính Chúa Thánh Thần, là Chúa và là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con. Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.”
Kinh Tin Kính, lời tuyên tín được Giáo Hội dạy, dẫn chúng ta trở về các nguồn Phúc Âm trong đó trình bày chân lý về Chúa Thánh Linh theo bối cảnh mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi. Môn Thánh Linh học của Giáo Hội căn cứ vào Sách Thánh, đặc biệt là Tân Ước.
Nguồn Sách Thánh thứ nhất chúng ta có thể căn cứ là Phúc Âm theo Thánh Gioan trong lời Chúa Kitô từ biệt các môn đệ trước khi chịu khổ hình và chết trên thánh giá. Khi loan báo Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ, Chúa Giêsu nối kết việc Chúa Thánh Linh đến với việc Ngài ra đi: “Thầy nói thật cho anh em biết, chính vì phúc lợi cho anh em mà Thầy ra đi, vì nếu Thầy không ra đi, Đấng An Ủi sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ gửi Ngài đến với anh em” (Jn 16:7).
Nội dung đoạn Kinh Thánh trích dẫn trên đây dường như có vẻ nghịch lý. Khi nói về việc Ngài ra đi, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Thầy nói thật cho anh em biết, chính vì phúc lợi cho anh em ...” và vì thế cuộc khổ hình và chết trên thập giá là điều phúc lợi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lập tức giải thích giá trị việc Ngài chịu khổ hình và chết trên thánh giá. Đây là cái chết cứu độ, là điều kiện để hoàn thành chương trình Thiên Chúa cứu độ nhân loại; và kết thúc một cách vinh quang bằng việc Chúa Thánh Linh ngự đến. Vì thế khổ hình thập giá là căn nguyên tất cả mọi điều mà Chúa Thánh Linh ngự đến sẽ đem lại cho các Tông Đồ và Giáo Hội tương lai, chúng ta sẽ có sự sống mới nhờ lãnh nhận Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh ngự đến làm cho công cuộc cứu độ của Chúa Kitô sinh hoa kết trái.
Chúa Thánh Linh ngự xuống sau khi Chúa Giêsu về trời. Chính lúc đó khổ hình tử nạn của Chúa Kitô mới sinh hoa kết trái toàn vẹn. Khi ở cực điểm sứ vụ thiên sai, Chúa Giêsu Kitô, Con Người, đã nhận được Chúa Thánh Linh từ Thiên Chúa Cha gởi đến cách sung mãn, mà từ nguồn sung mãn của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh sẽ được ban cho các tông đồ và Giáo Hội suốt mọi thời đại. Chúa Giêsu đã báo trước: “Khi nào Thầy bị treo lên khỏi đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy” (Jn 12:32). Lời tiên báo này rõ ràng nói về tính cách toàn vẹn của việc cứu độ cho toàn thể nhân loại theo nghĩa rộng, và về toàn thể ân sủng ban cho những người được cứu rỗi theo nghĩa cứu độ. Tuy nhiên, ơn cứu độ toàn vẹn này phải được thể hiện nhờ Chúa Thánh Linh.
Chúa Thánh Linh chính là Đấng phải đến vì Chúa Kitô ra đi. Những lời trong Phúc Âm Thánh Gioan 16:7 mô tả mối liên hệ nhân quả này. Chúa Thánh Linh được gửi đến vì ơn cứu độ Chúa Kitô đã thể hiện: “Nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ gửi Ngài đến với anh em”(Jn 16:7b, tc. DViv 8). Dĩ nhiên, “theo chương trình của Thiên Chúa, việc Chúa Kitô 'ra đi' là điều kiện tất yếu đối với việc 'gửi đến (gửi Chúa Thánh Linh đến)’ và Chúa Thánh Linh ngự xuống, nhưng sự kiện trên cũng chứng tỏ rằng sự việc bắt đầu lúc này là việc tự hiến cứu độ mới của Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Linh” (DViv 11).
Nhờ “bị treo lên” (thánh giá), Chúa Giêsu Kitô “lôi kéo hết mọi người đến với Ngài” (tc. Jn 12:32). Trong ánh sáng những lời Chúa Giêsu nói lúc Tiệc Ly, chúng ta hiểu “việc lôi kéo” đó được thể hiện bởi Chúa Kitô vinh hiển qua việc gởi Chúa Thánh Linh đến. Chính vì thế mà Chúa Kitô cần phải ra đi. Chúa Thánh Linh hoàn tất tính cách cứu độ hữu hiệu của Việc Nhập Thể. Rời khỏi trần thế, Chúa Kitô không những chỉ để lại thông điệp cứu độ, mà còn ban Chúa Thánh Linh cùng với hiệu lực của sứ điệp và toàn thể tính cách sung mãn của ơn cứu độ.
MỘT NGÔI THIÊN CHÚA
Trong lời từ biệt tại phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu giới thiệu một cách đặc biệt rõ ràng Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa khác biệt với Ngài: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Bào Chữa khác” (Jn 14:6). “Nhưng Đấng Bào Chữa, Chúa Thánh Linh, mà Chúa Cha sẽ gửi đến nhân danh Thầy sẽ dạy anh em mọi điều, và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:16). Khi nói về Chúa Thánh Linh, Chúa Giêsu thường dùng nhân xưng “Ngài (He, Him, His)”. “Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:26). “Ngài sẽ chứng minh thế giới sai lầm vì tội lỗi” (Jn 16:8). “Khi Thánh Linh chân lý đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới chân lý toàn vẹn” (Jn 16:13). “Ngài sẽ tôn vinh Thầy” (Jn 16:14).
Những lời trên đây cho thấy rõ ràng Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa, và không phải là một quyền năng vô ngã từ Chúa Kitô mà ra (tc. Lk 6:19: “quyền lực từ Ngài (từ Chúa Giêsu) xuất ra ...”. Là một Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh có hành động riêng thích hợp với đặc tính của một Ngôi Thiên Chúa. Khi nói về Chúa Thánh Linh, Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Anh em biết Ngài, vì Ngài ở trong anh em, và sẽ ở trong anh em” (Jn 14:7). “Ngài sẽ dạy anh em mọi điều, và làm cho anh em nhớ mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:16). “Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:16). “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” “Bất cứ điều gì Ngài nghe thì Ngài sẽ nói lại” (Jn 16:13). Ngài “sẽ tôn vinh” Chúa Kitô (tc. Jn 16:14), và “Ngài sẽ bắt lỗi thế gian” (Jn 16:8). Thánh Phaolô nói: Chúa Thánh Linh “kêu lên trong lòng, trong trái tim, chúng ta” (Gal 4:6); “Ngài ban” ân sủng “cho từng người theo ý Ngài” (1 Cor 12:11); “Ngài bầu cử cho các thánh” (Rom 8:27).
Chúa Giêsu cho biết Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa (Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa Ba Ngôi) với mọi hoạt động riêng của Ngài. Tuy nhiên, cũng trong lời từ biệt, Chúa Giêsu cho thấy những liên hệ kết hiệp Chúa Thánh Linh với Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Giêsu báo trước việc Chúa Thánh Linh ngự đến, và đồng thời minh định mạc khải Thiên Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Bào Chữa khác” (Jn 14:16), “Chúa Thánh Linh chân lý từ Chúa Cha mà ra” (Jn 15:26), “Chúa Cha sẽ phái Ngài đến nhân danh Thầy” (Jn 14:26). Bởi thế, Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa khác với Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con và đồng thời liên kết mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con. “Ngài” từ Chúa Cha “mà ra”, Chúa Cha “gửi” Ngài đến nhân danh Chúa Con và công nghiệp cứu độ đã được Chúa Con thể hiện bằng việc tự hiến trên thánh giá. Vì thế, Chúa Giêsu Kitô nói: “Nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ gửi Ngài đến với anh em” (Jn 16:7). “ Thánh Linh chân lý, Đấng từ Chúa Cha mà ra” được Chúa Kitô loan báo là Đấng Bào Chữa (Hướng Dẫn, Cố Vấn), mà “Thầy sẽ gửi từ Chúa Cha đến” (Jn 15:26).
Lời Chúa Giêsu từ biệt tại phòng Tiệc Ly mạc khải hành động cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã viết: “Chúa Thánh Linh, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa con, là tình yêu và ân sủng không phải tạo thành mà từ căn nguyên của mình (fons vivus) phát xuất mọi ân sủng cho các tạo vật: ơn hiện hữu đối với mọi vật qua việc tạo dựng; ân sủng dành riêng cho con người qua toàn thể công trình cứu độ”(số 10).
Chúa Thánh Linh mạc khải những điều sâu thẳm của thiên tính: mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đồng bản thể, cùng hướng đến con người để ban cho họ sự sống và ơn cứu độ. Thánh Phaolô nhắc tới điều này trong Thư I gửi giáo đoàn tại Corinth: “Chúa Thánh Linh tìm kiếm mọi sự, ngay cả những điều sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:10).
Buổi gặp chung ngày 26 tháng Tư, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Đấng Bảo Trợ, Thánh Linh Chân Lý
Nhiều lần chúng ta trích dẫn lời Chúa Giêsu từ biệt các tông đồ tại căn phòng trên lầu và lời hứa về Chúa Thánh Linh, Đấng Bảo Vệ và Bào Chữa mới và cuối cùng, sẽ ngự đến: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ gửi đến cho anh em Đấng Phù Trợ khác ở với anh em mãi mãi... Thánh Linh chân lý, thế gian không thể đón nhận Ngài, vì thế gian không thấy và cũng không biết Ngài” (Jn 14:16-17). Lời từ biệt đó, nằm trong khung cảnh trang nghiêm của buổi Tiệc Ly (tc. Jn 13:2), là nguồn gốc quan trọng đối với môn Thánh Linh học, ngành thần học về Chúa Thánh Linh. Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Linh là Đấng Phù Trợ từ Chúa Cha mà ra, là Đấng Thiên Chúa Cha “sẽ phái đến” với các tông đồ và Giáo Hội “nhân danh Chúa Con” khi chính Chúa Con “đi khỏi,” một cuộc ra đi sẽ thể hiện qua hy sinh khổ giá.
Chúng ta cần phải xem xét sự kiện Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Linh, Đấng Bảo Trợ, là “Thánh Linh chân lý.” Chúa Giêsu cũng gọi Ngài bằng danh hiệu này nhiều lần khác (tc. Jn 15:26; 16:13).
Cũng trong lời từ biệt tại buổi Tiệc Ly, khi trả lời câu hỏi của tông đồ Thomas, Chúa Giêsu đã nói về chính Ngài: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống” (Jn 14:6). Từ hai đoạn dẫn chứng chân lý trên được Chúa Giêsu minh xác về chính Ngài và Chúa Thánh Linh, chúng ta suy ra nếu Ngài gọi Đấng Bảo Trợ là “Thánh Linh chân lý,” điều này có nghĩa: Chúa Thánh Linh chính là Đấng, sau khi Chúa Kitô ra đi, sẽ duy trì cho các môn đệ sự thật Chúa Kitô đã loan báo và tiết lộ, và dĩ nhiên, Đấng ấy chính là Ngài. Đấng Bảo Trợ là Chân Lý, như Chúa Kitô là Chân Lý. Thánh Gioan viết trong Thư I của ngài: “Chúa Thánh Linh là nhân chứng, vì Thánh Linh là sự thật” (1 Jn 5:6). Cũng trong thư này Thánh Gioan viết: “Chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Bất cứ người nào biết Thiên Chúa thì nghe lắng lời chúng ta, còn người nào không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe lời chúng ta. Nhờ điều này chúng ta biết thần khí dẫn đến sự thật và thần khí dẫn đến sai lầm” (1 Jn 4:6). Nhiệm vụ của Chúa Con và của Chúa Thánh Linh trùng hợp, nối kết và hỗ tương hoàn thành trong việc xác nhận sự thật và chiến thắng chống sự sai lầm nơi tinh thần và lịch sử nhân loại. Bước khởi đầu của sứ mệnh đó là phân biệt sự thật và sự sai lầm giả trá.
Sống trong sự thật và hành động trong sự thật là nhiệm vụ quan trọng của các tông đồ và môn đệ Chúa Kitô vào thời kỳ đầu và suốt mọi thế hệ nối tiếp trong Giáo Hội qua mọi thời đại. Từ quan điểm này, lời loan báo về Thánh Linh Chân Lý có tầm quan trọng chính yếu. Tại căn phòng trên lầu, Chúa Giêsu nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng lúc này anh em không có sức chịu nổi (không thể hiểu)” (Jn 16:12). Lời Chúa Giêsu trên đây cho thấy sứ mệnh thiên sai của Ngài chỉ trong một thời gian ngắn, quá ngắn không đủ cho các môn đệ có thể thấy tất cả nội dung mạc khải. Và không phải thời gian quá ngắn, nhưng tính sẵn sàng và sự thông minh của người nghe có giới hạn. Nhiều dịp sách Phúc Âm ghi nhận chính các tông đồ “sửng sốt” (tc. Mk 6:62) và “không hiểu” (tc. Mk 8:21 chẳng hạn), hoặc có khi hiểu lầm những lời nói và việc làm của Chúa Kitô (tc. Mt 16:6-11 chẳng hạn).
Sự kiện trên giải thích đầy đủ sự quan trọng của lời Chúa Giêsu: “Khi Thánh Linh chân lý đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật hoàn toàn” (Jn 16:13).
Theo Công Vụ Tông Đồ, lời hứa này của Chúa Giêsu được minh xác lần đầu tiên trong ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống và những ngày kế tiếp. Và lời hứa này không giới hạn nơi các tông đồ và những người trực tiếp cộng tác với các ngài trong việc rao giảng tin mừng. Cũng lời hứa này trải rộng tới các thế hệ môn đệ và các thánh tử đạo tương lai của Chúa Kitô. Phúc Âm được dành cho muôn dân muôn nước và cho mọi thế hệ hiện hữu nối tiếp trong các khung cảnh văn hóa dị biệt và tiến trình văn minh đa dạng của nhân loại. Nghiên cứu cặn kẽ lịch sử lời Chúa Giêsu nói: “Thánh Linh chân lý Đấng từ Chúa Cha mà ra sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:26). “Ngài sẽ làm chứng ...” có nghĩa, Ngài sẽ cho thấy ý nghĩa đích thực của Phúc Âm trong phạm vi Giáo Hội, ngõ hầu Giáo Hội có thể loan báo tin mừng cách chính xác cho toàn thế giới. Trong mọi thời gian và không gian, ngay cả trong những biến cố thay đổi không ngừng trong đời sống nhân loại, “Thánh Linh chân lý” sẽ hướng dẫn Giáo Hội “tới sự thật toàn vẹn” (Jn 16:13).
Tương quan giữa mạc khải của Chúa Thánh Linh và (mạc khải của) Chúa Giêsu thì rất cận kề. Như vậy không có vần đề gì khác nhau giữa hai mạc khải. Điều này có thể suy diễn từ chính những lời Chúa Kitô hứa: “Vị Cố Vấn (Đấng Bào Chữa) là Chúa Thánh Linh mà Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy sẽ dạy anh em mọi điều, và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:26). “Làm cho nhớ lại” là công dụng của ký ức. Muốn nhớ lại, người ta phải hồi tưởng những sự việc đã xảy ra, những lời đã nói và những việc đã làm, như vậy nghĩa là làm thức tỉnh dậy những việc đã qua, và như thế nghĩa là làm những sự việc đó sống lại một lần nữa. Về Chúa Thánh Linh, Thánh Linh chân lý là thần quyền và sứ mệnh của Ngài không phải chỉ giới hạn trong việc làm nhớ lại việc đã qua mà thôi. Chúa Thánh Linh làm cho mọi sự trong Giáo Hội luôn luôn mới. Nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh, Giáo Hội không phải chỉ nhớ lại chân lý, nhưng ở lại và sống trong chân lý Chúa Kitô đã trao ban. Những lời của Chúa Kitô cũng được thể hiện theo cách này, nghĩa là “Ngài (Chúa Thánh Linh) sẽ làm chứng cho Thầy” (Jn 15:26). Việc Thánh Linh chân lý làm chứng đồng hóa với sự hiện diện của Chúa Kitô hằng sống, cùng với sức mạnh chủ động của Phúc Âm, với ơn cứu độ luôn luôn làm cho hiệu quả cùng với việc liên tục trình bày chân lý và thánh đức. Theo cách này, Chúa Thánh Linh “hướng dẫn” Giáo Hội “tới toàn chân lý”. Và Giáo Hội tiến lên để gặp Chúa Kitô vinh hiển.
Chân lý này hiện diện trong Phúc Âm, tối thiểu theo hàm ngụ. Chúa Kitô đã nói trước những điều Chúa Thánh Linh sẽ mạc khải. Khi nói về Chúa Thánh Linh, Chúa Giêsu nhấn mạnh: Chúa Thánh Linh “sẽ không tự Ngài nói điều gì, nhưng Ngài nói những điều Ngài nghe ... Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những điều của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:13-14). Chúa Kitô, được Thánh Linh chân lý tôn vinh, trước nhất là chính vì Chúa Kitô đã chịu đóng đanh thập giá, bị tước hết mọi sự và “trút hết” mọi sự thuộc về nhân tính của Ngài để cứu độ thế giới. Chính là nhờ ơn Chúa Thánh Linh mà các môn đệ chấp nhận “lời thánh giá”; chính Thầy (Chúa Giêsu) đã nói về các môn đệ: “... nhưng anh em không có sức chịu nổi” (Jn 16:12).
Bóng thánh giá hiện ra lờ mờ trước mắt những người chất phác này. Cần phải tâm luyện sâu sắc để tâm trí họ có khả năng hiểu thấu đáo “vinh quang ơn cứu độ” được hoàn tất chính yếu trong khổ hình thập giá. Cần có tâm hướng thần linh để chuyển hóa nội tâm cá thể, để chuẩn bị cách đặc biệt cho ngày Chúa Thánh Linh hiện xuống, và cho sứ mệnh rao giảng tin mừng khắp thế giới. Chúa Giêsu cho các môn đệ biết Chúa Thánh Linh “sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói rõ cho anh em biết.” Theo Thánh Phaolô thì chỉ có Chúa Thánh Linh, Đấng “thấu suốt những điều sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:10), mới biết rõ mầu nhiệm về Ngôi Lời, Chúa Con, trong liên hệ phụ tử với Chúa Cha và công việc cứu độ của Ngài cho con người mọi thời đại. Chỉ một mình Chúa Thánh Linh mới có thể mở trí khôn và trái tim nhân loại, cho họ khả năng chấp nhận mầu nhiệm khó hiểu về Thiên Chúa và Chúa Con nhập thể, bị đóng đanh thập giá và sống lại, Chúa Giêsu Kitô chính là Chúa.
Chúa Giêsu lại nói: “Thánh Linh chân lý ... sẽ loan báo cho anh em những điều sẽ xảy ra” (Jn 16:13). Ý nghĩa của lời tiên tri và hình ảnh cánh chung này là gì? Trong đó, Chúa Giêsu đặt dưới linh quang Thánh Linh toàn thể tương lai Giáo Hội, toàn thể cuộc lữ hành lịch sử Giáo Hội được kêu gọi thi hành suốt mọi thế kỷ. Điều này có nghĩa là đi gặp Chúa Kitô vinh hiển như diễn tả trong lời cầu khẩn mà Thánh Linh soi dẫn: “Xin hãy đến, Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến” (Kh 22:17-20). Chúa Thánh Linh hướng dẫn Giáo Hội hiểu chân lý mạc khải. Chúa Thánh Linh coi sóc việc giảng dạy, duy trì và áp dụng chân lý vào những hoàn cảnh lịch sử không ngừng thay đổi. Chúa Thánh Linh khơi dậy và hướng dẫn việc phát triển mọi điều, giúp hiểu biết và truyền bá chân lý đó, đặc biệt là trong việc chú giải Thánh Kinh và khảo cứu thần học. Những điều này không khi nào có thể tách rời khỏi sự hướng dẫn của Thánh Linh chân lý và Huấn Quyền của Giáo Hội, nơi Chúa Thánh Linh luôn luôn hoạt động.
Mọi điều xảy ra trong đức tin và qua đức tin nhờ công việc của Chúa Thánh Linh, như đã nói trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem: “Mầu nhiệm về Chúa Kitô phải được chấp nhận trọn vẹn như đức tin đòi hỏi, vì mầu nhiệm ấy là đức tin có khả thể dẫn nhập con người vào thực tại trong mạc khải huyền nhiệm. Bởi thế ‘việc đưa dẫn vào chân lý toàn vẹn’ được thể hiện trong đức tin và qua đức tin: đây là công việc của Thánh Linh chân lý và thành quả hành động của Ngài nơi nhân loại. Chúa Thánh Linh ở đây là hướng đạo tối cao và là ánh sáng soi dẫn tinh thần nhân loại. Điều này đúng thực với các tông đồ là những chứng nhân, lúc này có nhiệm vụ rao giảng cho toàn thể nhân loại về mọi việc Chúa Kitô đã làm và mọi điều Ngài giảng dạy, đặc biệt là loan báo việc Ngài chịu khổ hình thập giá và phục sinh. Nhìn xa hơn nữa, điều này cũng đúng cho mọi thế hệ môn đệ và tử đạo của Chúa, vì các vị đó sẽ phải chấp nhận với lòng tin và can đảm tuyên xưng mầu nhiệm về Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử nhân loại, mầu nhiệm được mạc khải giải thích ý nghĩa đích thực của lịch sử đó” (số 6).
Theo tiến trình này Thánh Linh chân lý không ngừng loan báo những việc sẽ phải xảy ra. Ngài luôn luôn cho nhân loại thấy tương lai thiên giới, tương lai này ở trên và vượt xa mọi tương lai có tính cách tạm bợ, và vì thế làm cho tương lai thế giới có giá trị vĩnh cửu. Như thế Thánh Linh tác động cho con người hiểu họ là gì, có cái gì, làm cái gì, và con người được Thiên Chúa kêu gọi đến với ơn cứu độ trong Chúa Kitô.
Như thế Đấng Bào Chữa (Đấng An Ủi, Trạng Sư), Thánh Linh chân lý, đích thực là Trạng Sư của nhân loại. Ngài đích thực là người bênh vực và bào chữa. Ngài là Đấng bảo vệ Tin Mừng trong lịch sử. Với quyền năng của Ngài, Tin Mừng luôn luôn là tin mừng ở đây, và trong viễn tượng ấy Ngài linh dẫn con người tới thiên đường bằng “lời hằng sống” (Jn 6:68).
Buổi gặp chung ngày 17 tháng Năm, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Chúa Thánh Linh Là Đấng Bào Chữa
Trong bài suy niệm trước về Chúa Thánh Linh, chúng ta khởi sự nghiên cứu văn bản Thánh Gioan về lời Chúa Giêsu từ biệt các môn đệ. Nói một cách nào đó đây là chính nguồn gốc Phúc Âm về Thánh Linh học. Chúa Giêsu loan báo việc Chúa Thánh Thần ngự đến, Ngài là Thánh Linh chân lý, “Đấng từ Thiên Chúa Cha mà ra” (Jn 15:26). Chúa Thánh Linh sẽ được Chúa Cha gửi đến với các tông đồ và Giáo Hội nhân danh Chúa Kitô, nhờ ơn cứu chuộc do hy lễ thập giá đem lại theo chương trình cứu độ từ thuở đời đời. Do công nghiệp của hy lễ thập giá, Chúa Con cũng “phái” Thánh Linh “đi”, vì Ngài nói: Thánh Linh sẽ đến là kết quả và là giá của việc Ngài ra đi (tc. Jn 16:7). Ý nghĩa trong lời nói của Chúa Giêsu là có mối liên hệ giữa cái chết, phục sinh, lên trời của Ngài và việc ban tràn đầy Thánh Linh, giữa mầu nhiệm Vượt Qua và Lễ Hiện Xuống. Hiển nhiên, theo bốn Sách Phúc Âm, việc ban Chúa Thánh Linh xảy ra vào chính chiều Chúa Nhật Phục Sinh (tc. Jn 20:22-25). Có thể nói thương tích nơi cạnh sườn Chúa Kitô trên thánh giá đã mở lối cho việc tuôn trào Thánh Linh, mà việc này là dấu chỉ và hoa trái từ vinh quang đạt được qua khổ hình và tử nạn của Chúa Kitô.
Chúng ta học từ lời Chúa Giêsu, trong căn phòng trên lầu, Ngài gọi Chúa Thánh Linh là “Đấng Phù Trợ (Bào Chữa, Paraclete)”: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ gửi đến Đấng Bào Chữa khác, ở với anh em mãi mãi” (Jn 14:16). Chúng ta cũng đọc trong bản văn khác lời tương tự: “Đấng Bào Chữa, Chúa Thánh Linh” (tc. Jn 14:16; 15:26; 16:7). Thay vì “Đấng Bào Chữa” (Paraclete) nhiều bản chuyển ngữ dùng từ (ngữ) “Cố Vấn” (Counselor). Chuyển ngữ đó có thể chấp nhận được, tuy nhiên cần đến từ nguyên Hy Lạp Parákletos mới thấu triệt lời Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Linh.
Parákletos nghĩa chính là “người được kêu gọi hoặc triệu đến để giúp đỡ” (do từ ngữ para-kaléin, “kêu gọi tới giúp đỡ người nào đó”). Vì thế người ấy là “người bảo vệ, người bảo trợ,” “người bào chữa,” cũng là “người trung gian” làm công việc trung gian bầu cử. Chúng ta chú ý theo nghĩa “người trạng sư bào chữa”, trong khi nhớ rằng một số Giáo Phụ dùng parákletos theo nghĩa “Đấng Cố Vấn” đặc biệt khi dẫn chiếu về hành động của Chúa Thánh Linh cho Giáo Hội. Hôm nay chúng ta nói về Chúa Thánh Linh là Đấng Bào Chữa. Danh xưng này giúp chúng ta ý thức sự liên hệ gắn bó giữa việc làm của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Linh, như sẽ thấy khi nghiên cứu thêm về văn bản trong Phúc Âm Thánh Gioan.
Chúa Kitô chính là Đấng Đệ Nhất Bầu Cử
Tại phòng Tiệc Ly, trước khi nạp mình chịu khổ hình cứu chuộc, Chúa Giêsu loan báo việc Chúa Thánh Linh đến: “Chúa Cha sẽ ban cho anh em Đấng An Ủi Bầu Cử khác.” Những lời này cho thấy chính Chúa Kitô là Đấng đệ nhất Bầu Cử, và việc làm của Chúa Thánh Linh là việc làm của Chúa Kitô được kéo dài.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu Kitô đã, đang và sẽ là “người bảo vệ” mãi mãi. Chính Thánh Gioan nói như thế trong Thư I của ngài: “Nếu người nào phạm tội, thì chúng ta có Đấng Bào Chữa (Parákletos) trước mặt Chúa Cha, đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Jn 2:1).
Đấng bào chữa chính là Đấng, lãnh nhận vai trò của những kẻ có tội, bào chữa cho họ khỏi hình phạt phải chịu vì tội lỗi của họ, và cứu họ khỏi lâm nguy mất sự sống đời đời và ơn cứu rỗi. Đây chính là công việc Chúa Giêsu đã làm. Chúa Thánh Linh cũng được gọi là Đấng Bào Chữa (Parákletos) vì Ngài tiếp tục công việc cứu chuộc của Chúa Kitô cho chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết đời đời.
Lại nữa, Chúa Thánh Linh là “vị trạng sư và bảo vệ khác.” Chúa Thánh Linh ở cùng với các môn đệ Chúa Kitô để canh giữ và bảo vệ các ngài bằng sức mạnh toàn năng của mình. Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Bảo Trợ khác ở với anh em muôn đời” (Jn 14:16). “Ngài sẽ ngự trong anh em, và hành động với anh em” (Jn 14:16). Lời hứa này cũng quan trọng như lời Chúa Giêsu hứa khi về với Chúa Cha: “Thầy ở cạnh (ở với) anh em từng giây từng phút cho tới ngày mãn thế” (Mt 28:20). Chúng ta biết Chúa Kitô là Ngôi Lời “nhập thể và nhập thế” (Jn 1:14). Khi về với Chúa Cha, Chúa Kitô hứa với các môn đệ: “Thầy ở cạnh anh em từng giây từng phút cho tới ngày mãn thế” (Mt 28:20. Kế tiếp, nhờ Chúa Thánh Linh, các tông đồ và Giáo Hội phải liên tiếp tìm kiếm sự hiện diện của Ngôi Lời, Chúa Con. Trong sứ mệnh trần thế, Chúa Cứu Thế đã nhập thể, sau khi về với Chúa Cha, thân xác Ngài hoàn toàn đi vào huyền nhiệm.
Sự hiện diện của Chúa Thánh Linh ở trong các linh hồn và nơi Giáo Hội như Chúa Giêsu đã nói (“Ngài ở với anh em và ở trong anh em”: Jn 14:17), làm cho Chúa Giêsu hiện diện cách vô hình (huyền nhiệm) liên tục “cho tới tận thế.” Sự hiệp nhất siêu việt của Chúa Con và Chúa Thánh Linh bảo đảm rằng nhân tính của Chúa Kitô, mà Ngôi Lời đã mặc lấy, sẽ hiện diện hoạt động nơi nào chương trình cứu độ của Chúa Ba Ngôi được quyền năng Chúa Cha làm cho hữu hiệu.
Chúa Thánh Linh là Đấng Bầu Cử bảo vệ các tông đồ và tất cả mọi người trong Giáo Hội sẽ kế thừa việc làm nhân chứng và tông đồ vụ của các vị đó qua mọi thế kỷ. Điều này đặc biệt xảy ra vào những lúc khó khăn khi các ngài bị thử thách về lòng dũng cảm. Đây là điều Chúa Giêsu tiên báo và hứa: “Người ta sẽ nộp anh em cho công nghị ... anh em sẽ bị giải nạp cho các quan chức và nhà vua ... Khi người ta giao nạp anh em, anh em đừng lo lắng phải nói thế nào hoặc phải nói điều gì ... vì không phải chính anh em nói, mà Thánh Linh Chúa Cha nói qua anh em” “vì Chúa Thánh Linh sẽ dạy anh em phải nói gì vào lúc đó” (Mt 10:17-20; tc. Mk 13:11; Lc 12:12).
Theo ý nghĩa rất thực tiễn ở trên, Chúa Thánh Linh là Trạng Sư và là Đấng Bầu Cử. Ngài hiện diện kề cận để soi dẫn các tông đồ khi các vị đó phải tuyên xưng, biện minh và bảo vệ chân lý. Chính Chúa Thánh Linh nói bằng ngôn từ của các ngài, và cùng với các ngài Chúa Thánh Linh làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm. Trước mặt những phán quan, Chúa Thánh Linh trở nên vị trạng sư vô hình bào chữa cho những người bị cáo, vì Ngài hành động với tư cách là cố vấn, bảo vệ và nâng đỡ các vị đó.
Đặc biệt suốt các cuộc bách hại thuộc mọi thời đại, những lời Chúa Giêsu nói tại căn phòng trên lầu thành hiện thực: “Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ gửi từ nơi Cha Thầy đến với anh em ... Ngài sẽ làm chứng về Thầy; và anh em cũng là chứng nhân nữa, vì anh em đã ở với Thầy từ đầu” (Jn 15:26-27).
Chúa Thánh Linh là “chứng nhân” ẩn hình, “âm thầm” hành động trong trái tim các tông đồ khi họ công khai làm chứng cho Chúa Kitô. Qua sự hiện diện và hành động nội tại đó, quyền năng siêu việt của chân lý về Chúa Kitô, Đấng là Ngôi Lời Chân Lý và Khôn Ngoan, hiển hiện và lan tràn ra khắp thế giới. Từ Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Linh, các tông đồ giành được khả năng, sức mạnh, để làm chứng nhân theo lời Chúa Kitô hứa: “Thầy sẽ ban cho anh em miệng lưỡi khôn ngoan, mà không một đối thủ nào của anh em có thể đương đầu hoặc chống lại được” (Lc 21:15). Sự kiện này đã xảy ra trong trường hợp vị tử đạo tiên khởi Stephen, trong Công Vụ Tông Đồ chứng tỏ rằng ngài “đầy Thánh Thần” (Cv 6:5). Các đối thủ của ngài “không thể đương đầu với sự minh triết và linh hoạt của ngài” (Cv 6:10). Trong các thế kỷ kế tiếp những người phản kháng Kitô hữu vẫn còn liên tục chống lại các sứ giả Phúc Âm. Nhiều lần họ nhận chìm tiếng nói của Kitô hữu trong máu các ngài, nhưng không thể bóp nghẹt chân lý mà các ngài là sứ giả loan báo. Chân lý Phúc Âm tiếp tục lan rộng khắp thế giới nhờ quyền lực Chúa Thánh Linh.
Theo lời Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh - Thần Linh chân lý, Đấng Phù Trợ - là Đấng “sẽ chứng minh thế giới sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” (Jn 16:8). Chúa Giêsu đã dành cho những từ ngữ này lời giải thích ý nghĩa rất quan trọng: “Tội lỗi” có nghĩa là tình trạng thiếu đức tin mà Chúa Giêsu đã gặp giữa “những người dân của Ngài,” những người thuộc dân riêng Ngài, nhưng họ đã kết án Ngài chết trên thập giá. Khi nói về “sự công chính,” dường như Chúa Giêsu nghĩ đến sự công chính cuối cùng mà Chúa Cha muốn trao cho Ngài (“... vì Thầy đi về với Chúa Cha”) khi phục sinh và lên trời. Trong bối cảnh này “sự xét đoán” có nghĩa là Thánh Linh chân lý sẽ chứng minh thế gian tội lỗi vì chối bỏ Chúa Kitô, hoặc tổng quát hơn, trong việc quay lưng lại với Thiên Chúa. Vì Chúa Kitô không đến để xét xử và kết án thế gian nhưng để cứu thế gian, vì thế thực tế “việc chứng minh thế giới tội lỗi” về phần Thánh Linh chân lý phải được hiểu là một sự can thiệp hướng thẳng vào việc cứu độ thế giới, hướng thẳng vào lợi ích cuối cùng của nhân loại.
“Việc xét xử” nói cách đặc biệt tới “tên chúa trùm thế giới này” là Satan. Ngay từ thuở ban đầu nó đã cố gắng đảo lộn công cuộc tạo dựng, chống lại giao ước và việc kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa: nó cố tình chống lại ơn cứu chuộc. Vì thế, nó “đã bị xét xử” ngay từ thuở ban đầu, như cha đã giải thích trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem (số. 27).
Nếu Chúa Thánh Linh, Đấng Phù Trợ, phải cho thế giới thấy rõ về “việc xét xử” này, hiển nhiên Ngài làm việc đó để tiếp tục công việc của Chúa Kitô nhắm vào công cuộc cứu chuộc thế gian.
Vì thế chúng ta có thể kết luận: khi làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng Phù Trợ là một vị trạng sư và người bảo vệ, mặc dầu vô hình, tận lực bênh vực công cuộc cứu độ và tất cả mọi việc liên quan đến công cuộc này. Ngài cũng là người bảo đảm chiến thắng sau cùng chống lại tội lỗi và thế giới bị khống chế trong tội lỗi, để giải phóng thế giới khỏi tội lỗi và đưa thế giới đến con đường cứu độ.
Buổi gặp chung ngày 24 tháng Năm, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Chúa Thánh Linh Ngự Xuống theo Tinh Thần Lời Hứa trong Cựu Ước
“Này, Thầy gửi đến với anh em điều Chúa Cha đã hứa” (Lc 24:49). Phúc Âm Thánh Luca ghi lại việc hoàn thành những lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ trước khi Ngài chịu khổ hình. Những suy niệm của chúng ta trong chương trước dựa trên lời từ biệt trong Phúc Âm Thánh Gioan. Chúng ta đã phân tích điều Chúa Giêsu nói lúc Tiệc Ly về Đấng Bảo Trợ và việc Ngài đến. Đây là chính văn ghi lại điều Chúa Giêsu loan báo và hứa trước khi chịu khổ hình đã liên kết việc Chúa Thánh Linh ngự đến với việc chính Ngài “ra đi”. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới hậu quả việc Chúa Thánh Linh ngự xuống khi Ngài ra đi. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Chính vì ích lợi cho anh em mà Thầy ra đi” (Jn 16:7).
Phần cuối Phúc Âm Thánh Luca cũng gồm những lời quan trọng Chúa Giêsu nói về đề tài này sau khi Chúa phục sinh: “Này, Thầy gửi đến với anh em điều Chúa Cha hứa; nhưng anh em hãy ở lại trong thành, cho tới khi anh em nhận được sức mạnh từ trời” (Lc 24:49). Mở đầu Công Vụ Tông Đồ, Thánh Luca nhắc lại lời căn dặn này một lần nữa: “Trong khi ở lại với họ (các tông đồ và môn đệ) Ngài bảo họ đừng rời khỏi Jerusalem, nhưng chờ đợi điều Chúa Cha hứa” (Cv 1:4).
Chúa Giêsu nói về điều Chúa Cha hứa gửi Chúa Thánh Linh đến như đã được tiên báo trong Cựu Ước. Sách ngôn sứ Joel ghi: “Và sẽ xảy ra sau này, là Ta sẽ tuôn đổ thần linh của Ta trên mọi người; các con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri; các người già cả sẽ ước mộng và người trẻ tuổi của các ngươi thấy viễn tượng (linh kiến). Vào những ngày đó, Ta sẽ tuôn đổ thần linh của Ta xuống trên cả những đầy tớ trai và gái của các ngươi” (Joel 3:1-2).
Thánh Phêrô nhắc lại lời trên đây khi giảng thuyết lần đầu tiên vào ngày Lễ Hiện Xuống, như chúng ta sẽ thấy sau này. Khi nói về “điều Chúa Cha hứa,” Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời các ngôn sứ loan báo, dầu rằng những lời đó đều có ý nghĩa quan trọng tương tự như nhau. Những lời Chúa Giêsu loan báo lúc Tiệc Ly thì rõ ràng và trực tiếp. Nếu sau khi phục sinh Chúa Giêsu nhắc đến Cựu Ước, chính là dấu hiệu Ngài muốn nhấn mạnh tính cách liên tục của chân lý theo Thánh Linh học trong toàn thể mạc khải. Điều này có nghĩa: Chúa Kitô hoàn tất những lời hứa đã được Thiên Chúa lập trong thời Cựu Ước.
Ngôn sứ Ezekiel (36:22-28) đã đặc biệt giải thích những lời hứa về Chúa Thánh Linh. Qua ngôn sứ Ezekiel, Thiên Chúa loan báo mạc khải về sự thánh thiện của Chúa, mà sự thánh thiện đó đã bị xúc phạm bởi tội lỗi của dân được tuyển chọn, đặc biệt là vì tội thờ ngẫu thần. Thiên Chúa cũng loan báo Ngài sẽ tập hợp dân Israel, thanh tẩy dân này khỏi mọi tì vết. Kế đó Ngài hứa: “Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới, và Ta sẽ đặt vào trong các ngươi tinh thần mới. Ta sẽ lấy đi khỏi thân xác các ngươi trái tim bằng đá và cho các ngươi trái tim bằng thịt. Ta sẽ đặt thần linh của Ta trong các ngươi, và làm cho các ngươi bước đi trong thánh luật của Ta ... Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Ez 36:26-28).
Lời Thiên Chúa hứa ban ơn Chúa Thánh Linh trích dẫn trên đây (Ez 36:26-28) củng cố lời tiên tri danh tiếng của ngôn sứ Jeremia về giao ước mới: “Chúa phán, này đã đến những ngày, khi Ta sẽ lập giao ước mới với nhà Israel và nhà Judah ... Ta sẽ đặt thánh luật của Ta trong chúng, và Ta sẽ viết luật đó trên trái tim chúng. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Jer 31:31,33). Ngôn sứ Jeremia nhấn mạnh: giao ước mới này sẽ khác với giao ước cũ - lời giao ước cũ liên kết với việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Chỉ ít ngày trước Lễ Ngũ Tuần, trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu nhắc lại những lời hứa các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt là ngôn sứ Ezekiel và Jeremia: những lời tiên báo rõ ràng về giao ước mới: Chúa Thánh Linh ngự xuống với các tông đồ và Giáo Hội. Lời tiên tri loan báo và hứa “đặt một tinh thần mới trong chúng” được gieo vào tâm hồn, vào nội tâm, bản thể tâm linh của con người. Kết quả việc gieo trồng tinh thần mới này sẽ là đặt thánh luật Thiên Chúa trong con người ta, “trong chúng,” vì thế đó chính là sự ràng buộc sâu xa giữa bản chất tâm linh và luân lý. Dẫn chiếu lời ngôn sứ Jeremia và Thánh Phaolô, góp lời với Thánh Augustine (tc. De Spiritu et littera, cc. 17, 21, 24: PL 44, 218, 224, 225), Thánh Thomas nói: “lời hứa đặt một tinh thần mới trong chúng” là cốt lõi của luật mới được gieo vào trái tim người ta (indita) (tc. Summa Theol., I-II, q. 106, a. I).
Theo lời ngôn sứ Ezekiel, không phải chỉ là trường hợp luật Thiên Chúa, mà đúng hơn là hồng ân Thánh Linh Thiên Chúa, gieo trồng vào linh hồn nhân loại. Chúa Giêsu loan báo việc sắp hoàn tất lời tiên báo kỳ diệu này, đó là Chúa Thánh Linh, tác giả luật mới, và chính Ngài là luật mới đó, sẽ hiện diện và hoạt động nơi trái tim nhân loại. Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “Anh em biết Ngài, vì Ngài ở với anh em, và ở trong anh em” (Jn 14:17). Khi hiện ra với các tông đồ tụ họp nơi căn phòng trên lầu vào buổi chiều sau khi phục sinh, Chúa Kitô nói với các ông, “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh” (Jn 20:22).
Vì thế, “việc tuôn đổ Thánh Linh” không phải chỉ nói đến việc “đặt,” “viết” thánh luật vào bản thể tâm linh sâu thẳm của con người. Nhờ Cuộc Vượt Qua cứu độ của Chúa Kitô, Thiên Chúa Cha “ban” Chúa Thánh Linh cho các tông đồ (tc. Jn 14:16) để Ngài có thể “ngự” trong các ông (tc. Jn 14:17). Trong Chúa Thánh Linh, Thiên Chúa truyền thông chính Ngài với nhân loại theo mầu nhiệm Thần Linh sâu thẳm, để nhân loại có thể đạt được kết quả linh thiêng nhờ chia sẻ bản tính Thần Linh trong sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Thomas giải thích (tc. Summa Theol. I, q. 38, a.2): vì thế Ơn Thánh Linh là căn bản mọi ân sủng siêu nhiên. Ơn Thánh Linh là cội rễ ân sủng thánh hóa và ân sủng đó thực sự thánh hóa qua “việc con người được dự phần bản chất thần linh” (tc. 2 Pet 1:4). Hiển nhiên việc thánh hóa này là một chuyển hóa luân lý nơi tinh thần nhân loại. Như thế điều các ngôn sứ mô tả là “đặt luật Thiên Chúa nơi trái tim” được xác nhận, được làm sáng tỏ và phong phú hóa ý nghĩa theo chiều kích mới của “việc tuôn đổ Thánh Linh.”
Việc tuôn đổ ân sủng Thánh Linh cũng có mục đích đặc biệt củng cố sứ mệnh các tông đồ, khi Giáo Hội lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử, và suốt tiến trình phát triển sứ mệnh tông đồ về sau. Khi từ biệt các tông đồ, Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em sẽ 'được mặc sức mạnh từ trời'” (Lc 24:29). “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh đến trên anh em, và anh em sẽ làm chứng về Thầy tại Jerusalem và Judea và Samaria và cho tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Trong lời từ biệt, các tông đồ đã nghe Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Anh em sẽ là chứng nhân” (Jn 15:27). Và trong lời từ biệt này, Chúa Giêsu cũng liên kết việc làm chứng đầu tiên trong lịch sử của các tông đồ và môn đệ với việc Chúa Thánh Linh làm chứng: “Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:26). Vì thế, “với việc làm chứng của Thánh Linh chân lý, lời chứng về phía nhân loại của các tông đồ được củng cố mạnh mẽ. Kết quả là việc làm chứng của các tông đồ cũng tìm thấy ở việc Chúa Thánh Linh làm chứng một căn bản tiềm ẩn liên tục giữa các thế hệ môn đệ và tín hữu Chúa Kitô, những người sẽ kế tiếp nhau trải qua các thế hệ” (DV 5).
Ngày đó và sau này, làm chứng cho Chúa Giêsu là tạo lập nước Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã nói. Cũng trong dịp trò chuyện trước khi lên trời, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh với các tông đồ về vương quốc này (Cv 1:3) phải được hiểu theo nghĩa phổ cập và thế mạt. Nước Thiên Chúa không phải chỉ là “vương quốc Israel” tạm bợ (Cv 1:6), theo các ông nghĩ.
Cũng lúc đó Chúa Giêsu bảo các ông ở lại Jerusalem sau khi Chúa lên trời. Chính tại đó “các ông sẽ nhận được sức mạnh từ trời”; và tại đó Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên các ông. Lần nữa Chúa nhấn mạnh mối ràng buộc và sự liên tục giữa giao ước cũ và giao ước mới. Jerusalem, địa điểm đi vào lịch sử của Dân Thiên Chúa theo giao ước cũ, lúc này phải trở nên điểm phát xuất lịch sử của Dân Thiên Chúa theo giao ước mới, tức là Giáo Hội.
Jerusalem đã được chính Chúa Giêsu chọn (tc. Lc 9:5; 13:33) làm địa điểm cho việc hoàn thành sứ mênh thiên sai của Ngài. Jerusalem là nơi Ngài chịu chết và phục sinh “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Jn 2:19), và là địa điểm của việc cứu độ. Với Lễ Vượt Qua ở Jerusalem “thời gian của Chúa Kitô” được kéo dài trở thành “thời gian của Giáo Hội”: thời điểm quyết định là ngày Lễ Hiện Xuống. “Như được viết rằng Chúa Kitô phải chịu đau khổ và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, và việc ăn năn thống hối và tha thứ tội lỗi phải được rao giảng nhân danh Ngài cho muôn dân, khởi đầu từ Jerusalem” (tc Lc 24:46-47). Vào lúc khai sinh Giáo Hội, việc này bắt đầu xảy ra do hành động của Chúa Thánh Linh, Đấng là Thần Linh Tạo Hóa (Veni, Creator Spiritus) kéo dài việc tạo dựng đầu tiên khi thần khí Thiên Chúa “bay là là trên mặt nước” (St 1:2)
Buổi gặp chung ngày 21 tháng Năm, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh
Chúng ta biết trước khi lên trời Chúa Giêsu đã hứa và truyền cho các tông đồ: “Thầy gửi đến với anh em điều Chúa Cha đã hứa, nhưng anh em hãy ở lại trong thành cho tới khi được mặc sức mạnh từ trời” (Lc 24:49; tc. Cv 1:4). Trong bài suy niệm trước, chúng ta đã nói về điều này và nhấn mạnh tính cách liên tục phát triển chân lý Thánh Linh giữa Cựu và Tân Ước. Công Vụ Tông Đồ cho biết lệnh truyền này đã được các tông đồ thi hành, “khi các ông trở lại thành (Jerusalem) và đi lên căn phòng trên lầu, ở lại đó ... Tất cả mọi người đều đồng một lòng chuyên tâm cầu nguyện” (Cv 1:13-14). Các ngài không những chỉ ở lại trong thành, nhưng còn tụ họp tại căn phòng trên lầu như một cộng đoàn. Các ngài ở đó cầu nguyện chung với nhau cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, như một hành động trực tiếp chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh ngự xuống. Các ngài cũng chờ đợi nhìn thấy rõ ràng, qua công việc của Chúa Thánh Linh, Giáo Hội được sinh ra do khổ hình thập giá và phục sinh của Chúa Kitô. Toàn thể cộng đồng và mỗi cá nhân đều liên tục chuẩn bị đón tiếp việc này.
“Mọi người đều đồng tâm ân cần cầu nguyện” (Cv 1:14) để chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh. Chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh đến là lặp lại hoặc kéo dài việc cầu nguyện mà Chúa Giêsu Nazareth, khi khởi đầu sứ mệnh thiên sai, đã chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh ngự xuống khi Ngài chịu phép rửa tại Sông Jordan: “Khi Chúa Giêsu ... đang cầu nguyện, trời mở ra, và Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Ngài” (Lc 3:21-22).
Chúng ta có thể hỏi: tại sao lại phải tiếp tục cầu nguyện để xin điều đã được hứa ban? Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu ở Sông Jordan cho thấy không thể tách rời việc cầu nguyện xin cho việc tiếp nhận đúng lúc “ân sủng toàn hảo từ trời cao” (tc. Giacôbê 1:17). Cộng đồng các tông đồ và môn đệ đầu tiên đã chuẩn bị đón nhận hồng ân này từ trời cao ban xuống: Chúa Thánh Linh Đấng sẽ khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian.
Vào những lúc đặc biệt quan trọng, Giáo Hội hành động theo cùng một cách là cầu nguyện. Giáo Hội kết hợp với cộng đoàn các tông đồ cầu nguyện chung với Mẹ Chúa Kitô. Theo một ý nghĩa nào đó, Giáo Hội trở lại căn phòng trên lầu, chẳng hạn như vào lúc khai mạc Công Đồng Vatican II. Hơn nữa, ngày lễ Hiện Xuống hàng năm được chuẩn bị bằng tuần chín ngày cầu xin Chúa Thánh Linh: lặp lại việc làm của cộng đồng Kitô hữu đầu tiên cầu nguyện đón chờ Chúa Thánh Linh ngự đến.
Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện được thực hiện “trong đồng tâm nhất trí.” Chi tiết này cho thấy một biến đổi quan trọng đã xảy ra nơi trái tim các tông đồ. Trước đó đã có những dị biệt ngay cả đến ganh đua (tc. Mk 9:34; Lc 9:46; 22:24). Đây là dấu hiệu lời cầu nguyện tư tế của Chúa Kitô bắt đầu trổ hoa kết trái. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho việc hiệp nhất các môn đệ: “Xin cho họ nên một; như Con, Cha, là một, và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta” (Jn 17:21). “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ có thể trở nên hoàn toàn một, để thế gian nhận biết Cha đã phái Con đi và yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con” (Jn 17:23).
Suốt mọi thời đại và mọi thế hệ Kitô hữu, lời cầu nguyện này của Chúa Kitô luôn luôn gắn liền với việc xin ơn hiệp nhất Giáo Hội. Những lời này thích đáng với thời đại chúng ta biết chừng nào, đặc biệt là trong các nỗ lực mưu cầu hiệp nhất Kitô hữu! Có lẽ không khi nào bằng lúc này, những lời đó có tầm quan trọng ngang với ý nghĩa đặc biệt mà Chúa Kitô đã thốt lên vào thời điểm Giáo Hội sắp sửa tiến vào thế giới! Ngày nay chúng ta cũng có cảm tưởng từ khắp mọi phía về khởi đầu tiến đến một thế giới mới, một thế giới liên kết hơn và xích lại gần nhau hơn.
Hơn nữa, cộng đồng các tông đồ và môn đệ đã kiên trì cầu nguyện trước ngày Lễ Hiện Xuống: “mọi người đều miệt mài cầu nguyện.” Đây không phải là lời cầu nguyện chúc tụng nhất thời. Từ ngữ Hy Lạp, tác giả Công Vụ Tông Đồ dùng nói về sự kiên nhẫn chuyên cần, còn có nghĩa “kiên quyết,” ám chỉ hy sinh và khắc phục khó khăn. Các tông đồ miệt mài cầu nguyện, không phải chỉ bằng trái tim mà còn cả bằng ý chí nữa. Các tông đồ ý thức trách nhiệm đang chờ đợi các ngài.
Lời cầu nguyện tự nó là hoa trái của hành động bên trong của Chúa Thánh Linh, vì chính Ngài thúc đẩy cầu nguyện và giúp người ta tận hiến cầu nguyện. Lần nữa chúng ta nhớ việc miệt mài cầu nguyện có tính cách tương tự là chính Chúa Giêsu, trước khi khởi đầu sứ mệnh thiên sai của Ngài, đã đi vào nơi hoang địa thanh vắng. Các tác giả Phúc Âm nhấn mạnh: “Thánh Linh đưa Ngài” (Mk 1:12; tc. Mt 4:1), “Ngài được Thánh Linh dẫn đưa vào hoang địa” (Lc 4:1).
Nếu ân sủng Thánh Linh đa diện thì phải nói: trong thời gian các tông đồ tụ họp nơi phòng trên lầu ở Jerusalem, Chúa Thánh Linh đã âm thầm tác động các ngài cầu nguyện. Việc này xảy ra để vào ngày Lễ Hiện Xuống các tông đồ và môn đệ có thể sẵn sàng đón nhận ân sủng vĩ đại và “có tính cách quyết định” này, nhờ đó đời sống Giáo Hội Chúa Kitô khởi đầu cách vững chắc trên trái đất.
Nơi cộng đồng liên kết cầu nguyện tại căn phòng trên lầu ở Jerusalem, ngoài các tông đồ còn có một vài phụ nữ. Khi về với Chúa Cha, Chúa Kitô trực tiếp bảo các tông đồ “... đừng rời khỏi Jerusalem, nhưng chờ đợi điều Chúa Cha hứa” (Cv 1:4). Chúa Giêsu ký thác cho các ông sứ mệnh đặc biệt trong Giáo Hội của Ngài.
Những người khác, gồm một số phụ nữ lúc này tham gia việc chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh hiện xuống chỉ là nối tiếp cách hoạt động của Chúa Kitô, như nói rõ trong nhiều đoạn Phúc Âm khác nhau. Thánh Luca đã nêu danh tánh một số phụ nữ này, các bà là môn đệ, là cộng tác viên và ân nhân của Chúa Giêsu: bà Maria gọi là Magdalena, bà Johanna vợ ông Chuza, người hầu cận Herod, bà Suzanna, và nhiều bà khác (tc. Lc 8:1-3). Nói một cách tổng quát, lời công bố Phúc Âm về nước Thiên Chúa không phải chỉ xảy ra trước mặt Mười Hai Tông Đồ và các môn đệ, nhưng cũng đặc biệt trước sự hiện diện của những phụ nữ này. Thánh sử nói các bà “xuất tài sản riêng để tiếp tế cho Chúa Giêsu và các tông đồ” (Lc 8:3).
Sự kiện này được hiểu: “các phụ nữ song song với nam giới được kêu gọi chia sẻ nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu loan báo, là thành viên và cũng góp phần vào việc phát triển nước Thiên Chúa giữa muôn dân,” như cha đã giải thích kỹ càng trong Tông Thư Mulieris Dignitatem.
Từ quan điểm này, sự hiện diện của một số phụ nữ tại căn phòng trên lầu ở Jerusalem, trong khi chuẩn bị Lễ Hiện Xuống và khai sinh Giáo Hội, có tầm quan trọng đặc biệt.
Không thể hoài nghi sự hiện diện của Mẹ Chúa Kitô có tầm quan trọng rất đặc biệt trong việc chuẩn bị cộng đoàn tông đồ đón Chúa Thánh Linh vào Lễ Hiện Xuống. Tuy nhiên, chủ đề này sẽ được bàn tới trong suy niệm kế tiếp.
Buổi gặp chung ngày 21 tháng Sáu, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Sự hiện diện của Đức Maria tại Căn Phòng Trên Lầu ở Jerusalem
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với một số phụ nữ, với Đức Maria, Thân Mẫu Chúa Giêsu, và với anh em Ngài” (Cv 1:14). Qua những lời giản dị này, tác giả Công Vụ Tông Đồ ghi lại sự hiện diện của Thân Mẫu Chúa Kitô tại căn phòng trên lầu trong những ngày chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh hiện xuống.
Trong phần suy niệm trước, chúng ta đã đi vào căn phòng trên lầu và thấy các tông đồ, vâng lời Chúa Giêsu căn dặn trước khi Ngài về với Chúa Cha, tụ họp và “một tâm một trí miệt mài” cầu nguyện. Không phải chỉ riêng các tông đồ, vì các môn đệ khác, cả nam và nữ, cùng hiện diện với các ngài. Thánh Luca, tác giả Công Vụ Tông Đồ, cũng kể tên Đức Maria, Thân Mẫu Chúa Kitô, trong số những người này thuộc cộng đoàn sơ khởi tại Jerusalem. Thánh Luca kể Đức Maria trong số những người hiện diện mà không thêm chi tiết đặc biệt nào về Người. Tuy nhiên, chúng ta biết Thánh Luca, trong Phúc Âm của ngài, đã viết nhiều về chức thiên mẫu và sự trinh khiết của Người, căn cứ vào các dữ kiện ngài thu thập cách chính xác nơi các cộng đoàn Kitô hữu (tc. Lc 1:1 ff; Cv1:1ff). Các dữ kiện này được truy nguyên, ít nhất là gián tiếp, về nguồn gốc mọi sự kiện liên quan tới Đức Maria, chính Người là Hiền Mẫu Chúa Giêsu. Kết quả trong hai phần tường thuật của thánh Luca là: khi Con Thiên Chúa đến trần gian được an bài liên kết mật thiết với Đức Maria, bây giờ khi Giáo Hội chào đời cũng nối kết với Người. Lời tường thuật vắn gọn “Người hiện diện nơi căn phòng trên lầu vào Lễ Hiện Xuống” đủ cho chúng ta thấy tầm quan trọng vĩ đại mà Thánh Luca gán cho chi tiết này.
Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Maria là một trong những người tham dự việc chuẩn bị đón Lễ Hiện Xuống với tư cách một thành viên cộng đồng Giáo Hội đầu tiên đang thành hình. Căn cứ vào Phúc Âm Thánh Luca và các văn bản Tân Ước khác, truyền thống Kitô hữu về sự hiện diện của Đức Maria trong Giáo Hội đã được hình thành, và Công Đồng Vatican II tóm tắt bằng cách chào kính Người như chi thể siêu việt và phi thường của Giáo Hội (tc. LG 53), vì Người là Mẹ Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, và vì thế Người là Mẹ Thiên Chúa.
Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc lại trong thông điệp mở đầu bằng những lời trong Công Vụ Tông Đồ chúng ta vừa mới đọc. Các ngài muốn nhấn mạnh: chính vì Đức Maria hiện diện vào lúc khởi đầu Giáo Hội, các ngài cũng ước muốn Người hiện diện trong Công Đồng những người kế thừa các tông đồ cùng nhau tụ họp vào hạ bán thế kỷ hai mươi trong tinh thần kế tục cộng đồng nơi căn phòng trên lầu. Trong lúc cùng nhau làm việc Công Đồng, các Nghị Phụ cũng ước muốn “một lòng một ý chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria Hiền Mẫu Chúa Kitô” (tc. Cv 1:14).
Trong biến cố truyền tin, Đức Maria đã đón nhận Chúa Thánh Linh ngự đến với Người. Thiên sứ Gabriel nói với Người: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ (rợp bóng trên) Trinh Nữ; vì thế con trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Do việc Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Đức Maria, Người được liên kết cách duy nhất đặc biệt với mầu nhiệm Chúa Kitô. Trong Tông Huấn Mẹ Chúa Cứu Thế (Redemptoris Mater), cha đã viết: “Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đức Maria hiện diện ngay từ ‘trước khi tạo dựng vũ trụ’ (tc. Eph. 1:4), vì Chúa Cha đã chọn Người từ thuở miên viễn để làm Mẹ của Con Chúa Cha trong Mầu Nhiệm Nhập Thể. Và còn hơn thế nữa, cùng với Chúa Cha, Chúa Con đã chọn Đức Maria, luôn luôn ký thác Người cho Chúa Thánh Linh” (RM 8).
Trong căn phòng trên lầu ở Jerusalem, khi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô nơi trần thế đã đến hồi viên mãn, Đức Maria cùng với các môn đệ khác chuẩn bị cho việc Chúa Thánh Linh trở lại, đánh dấu ngày khai sinh Giáo Hội. Vì tình trạng tràn đầy ân sủng và chức Thiên Mẫu của Người, nên Đức Maria đích thực là “đền thờ Chúa Thánh Linh” (tc. LG 53). Nhưng Đức Maria tham gia cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh ngự đến với các tông đồ và môn đệ. Xin Ngài làm bùng lên sức mạnh trong cộng đồng tông đồ. Sức mạnh đó hướng về sứ mệnh mà Chúa Kitô đã nhận từ Chúa Cha khi đến trần gian (tc. Jn 5:36), và khi trở về với Chúa Cha, đã trao lại cho Giáo Hội (tc. Jn 17:18). Từ khởi đầu, Đức Maria đã liên kết với Giáo Hội trong tư cách môn đệ Con của Người và là gương sáng phi thường cho Giáo Hội về đức tin và đức ái (tc. LG 53).
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh điều này trong Hiến Chế Lumen Gentium (Tín Lý về Giáo Hội): “Nhờ ơn huệ và chức vị Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria hiệp nhất với Con là Đấng Cứu Thế, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Người còn kết hiệp mật thiết với Giáo Hội. Như Thánh Ambrose dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô. Trong mầu nhiệm Giáo Hội ... Đức Trinh Nữ là gương mẫu tuyệt vời và hiếm có ... Nhờ lòng tin và vâng phục, không biết đến người nam nhưng được Chúa Thánh Linh bao phủ, Người đã sinh ra cho thế gian chính Con Thiên Chúa Cha” (LG 63).
Chính vì mối liên hệ với Chúa Thánh Linh được hình thành vào thời điểm Mầu Nhiệm Nhập Thể, lời cầu nguyện của Đức Maria tại căn phòng trên lầu trong việc chuẩn bị đón Chúa Thánh Linh hiện xuống có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Bây giờ mối thâm tình này lại trở lại và tạo ra tương quan mới.
Khi nói Đức Maria “trội vượt” trên bình diện đức tin, dường như Công Đồng Vatican II nhắc lại lời bà Elisabeth chào người em họ của mình, Trinh Nữ thành Nazareth sau ngày truyền tin: “Phúc thay người đã tin” (Lc 1:45). Thánh sử viết: “Bà Elisabeth được tràn đầy Thánh Linh” (Lc 1:41) đã thốt lên những lời đó khi đáp lại lời Đức Maria chào. Hơn nữa, cũng theo Thánh Luca, “tất cả mọi người” trong căn phòng trên lầu ở Jerusalem khi Chúa Thánh Linh hiện xuống “đều được tràn đầy Thánh Linh” (Cv 2:4). Vì thế Đức Maria Đấng đã “có thai nhờ quyền phép Chúa Thánh Linh” (tc. Mt 1:18) lại được tràn đầy Chúa Thánh Linh trong Lễ Hiện Xuống. Từ ngày đó trở đi hành trình đức tin, đức ái và liên kết toàn hảo của Người với Chúa Kitô được nối kết với Giáo Hội lữ hành.
Cộng đồng tông đồ cần sự hiện diện của Đức Maria Mẹ Chúa Kitô và chuyên cần miệt mài cầu nguyện chung với Người. Có thể nói, trong lời cầu nguyện chung với Đức Maria, chúng ta nhận thấy sự trung gian đặc biệt của Người phát xuất từ tình tự đầy tràn ân sủng Chúa Thánh Linh. Là cung thánh huyền nhiệm của Chúa Thánh Linh, Đức Maria nài xin Ngài ngự đến trên Giáo Hội, đã được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Kitô trên thánh giá, lúc này sắp sửa xuất hiện nơi thế giới.
Trong Công Vụ Tông Đồ, đoạn văn Thánh Luca tóm lược sự kiện Đức Maria hiện diện giữa các tông đồ và tất cả mọi người khác, “chuyên cần cầu nguyện” chuẩn bị đón Lễ Hiện Xuống và việc tuôn đổ ơn Chúa Thánh Linh có nội dung rất phong phú.
Trong Hiến Chế Lumen Gentium (Tín Lý về Giáo Hội ), Công Đồng Vatican II diễn tả tính cách phong phú của nội dung dẫn thượng. Theo Hiến Chế quan trọng trên, “Đức Maria, Người ở giữa các môn đệ chuyên cần cầu nguyện tại căn phòng trên lầu, là Mẹ của Chúa Con, Đấng được Thiên Chúa tiền định là ‘trưởng tử giữa đàn em đông đảo’” (tc. Rom 8:29). Tuy nhiên Công Đồng Vatican II nhấn mạnh thêm: chính Đức Maria, với tình mẫu tử, hợp tác trong “việc tái sinh và dạy dỗ” những “anh em” này của Chúa Kitô. Đến lần Giáo Hội, từ ngày Lễ Hiện Xuống, “do việc giảng huấn đem lại đời sống mới và bất tử cho những người con thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Linh và Thiên Chúa ban cho Giáo Hội trong Phép Rửa (Thanh Tẩy)” (LG 64). Bởi thế, muốn trở nên hiền mẫu, Giáo Hội phải theo gương Mẹ Chúa Kitô. Giáo Hội noi gương Đức Maria bắt đầu từ biến cố tại căn phòng trên lầu (ở Jerusalem).
Buổi gặp chung ngày 28 tháng Sáu, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Nguồn gốc Lễ Hiện Xuống và Hoa Trái Đầu Mùa
Từ những bài suy niệm trước về Chúa Thánh Linh trong kinh Tin Kính, chúng ta nhận thấy chân lý về Thánh Linh học rất súc tích trên nền tảng Phúc Âm. Đồng thời về phương diện mạc khải thần linh, chúng ta cũng phải lưu ý đến sự khác biệt về nét đan thanh giữa chân lý Thánh Linh học trong tương quan với chân lý Kitô học. Dĩ nhiên rằng trong các văn bản Sách Thánh, Chúa Con đời đời hằng hữu, đồng bản tính với Chúa Cha, là sự mãn túc về Thiên Chúa tự khải trong lịch sử nhân loại. Do việc trở nên “con người,” “sinh bởi người nữ” (tc. Gal 4:4), Ngài hiện lộ và hành động như một con người bằng xương bằng thịt. Nói cho đúng, Ngài cũng mạc khải Chúa Thánh Linh cách rõ ràng, loan báo việc Chúa Thánh Linh đến và minh họa sự liên hệ của Chúa Thánh Linh với Chúa Cha và Chúa Con trong sứ mệnh cứu độ, tức là trong Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Theo lời Chúa Giêsu loan báo và hứa: Giáo Hội là nhiệm thể Chúa Kitô (tc. 1 Cor 12:27) và là nhiệm tích sự hiện diện của Ngài “ở với chúng ta tới tận thế” (tc. Mt 28:20) đã khởi đầu bằng việc Đấng Phù Trợ ngự đến.
Tuy nhiên, Chúa Thánh Linh đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con nhưng vẫn còn là “Thiên Chúa ẩn dật.” Khi hoạt động trong Giáo Hội và thế giới, Chúa Thánh Linh không xuất hiện như Chúa Con. Chúa Con Ngôi Lời hằng hữu đã mặc nhân tính và trở nên như chúng ta, để trong cuộc đời trần thế của Ngài, các môn đệ đã có thể nhìn thấy Ngài và “(tay của) họ có thể chạm vào Ngài” (tc. 1 Jn 1:1).
Mặt khác, sự hiểu biết của chúng ta về Chúa Thánh Linh không được củng cố bởi nhìn thấy một Ngôi Thiên Chúa sống giữa chúng ta trong hình dáng nhân loại, mà chỉ căn cứ vào đức tin và lời Chúa Kitô mạc khải, nhờ nhận xét các hiệu lực do sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong chúng ta và thế giới. Điều chính yếu của sự hiểu biết này là biến cố Lễ Hiện Xuống.
Theo truyền thống Do Thái giáo, Lễ Hiện Xuống vốn gốc là lễ mừng hoa trái đầu mùa. “Một năm ba lần tất cả mọi nam nhân các ngươi sẽ phải trình diện trước Thiên Nhan, Thiên Chúa của Israel” (Xh 34:23). Lần thứ nhất là dịp lễ Vượt Qua, lần thứ hai là Lễ Mùa Gặt (hoa trái đầu mùa); lần thứ ba là Lễ Nhà Tạm.
“Lễ mùa gặt, hoa trái đầu mùa những gì các ngươi gieo nơi đồng ruộng” (Xh 23:16), được gọi là “Lễ Năm Mươi (Lễ Ngũ Tuần)” theo tiếng Hy Lạp, vì lễ này được mừng năm mươi ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ đó cũng còn được gọi là lễ (các) tuần, vì rơi vào bảy tuần sau lễ Vượt Qua. Lễ thu hoạch cử hành riêng, gần cuối năm (tc. Xh 23:16; 34:22). Các sách luật gồm những chỉ dẫn chi tiết về mừng Lễ Năm Mươi (tc. Lev 23:15ff.; Ds 28:26-31), mà về sau cũng trở thành lễ canh tân giao ước (tc. 2 Sbn 15:10-13), như chúng ta sẽ thấy sau này.
Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ và cộng đồng tiên khởi các môn đệ Chúa Kitô trong căn phòng trên lầu ở Jerusalem. Những vị này “đã chuyên tâm cầu nguyện” cùng với Đức Maria, Hiền Mẫu Chúa Kitô (tc. Cv 1:14), liên kết với ý nghĩa của Lễ Ngũ Tuần trong Cựu Ước. Lễ mùa gặt này được gọi là lễ “mùa gặt” mới vì Chúa Thánh Linh chủ động mùa gặt đó: mùa gặt thần linh.
Hoa mầu là kết quả của hạt giống Chúa Kitô đã gieo. Chúng ta nhớ lại những lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Thầy bảo anh em: ngước mắt lên mà xem đồng lúa đã chín đang chờ ngày gặt hái”(Jn 4:35). Chúa Giêsu muốn các tông đồ hiểu chỉ sau cuộc tử nạn của Ngài các ông sẽ gặt hoa mầu từ hạt giống Ngài đã gieo: “‘người này gieo, người kia gặt.’ Thầy phái anh em đi gặt thứ anh em không phải vất vả gieo vãi; người khác đã phải lao khổ, và anh em thâu lượm kết quả của họ” (Jn 4:37-38).
Từ ngày lễ Hiện Xuống, do việc làm của Chúa Thánh Linh, các tông đồ trở nên người gặt hoa mầu từ hạt giống Chúa Giêsu đã gieo trồng. “Người gặt hưởng công, và thu góp hoa mầu là sự sống đời đời, vì thế cả người gieo và người gặt đều hớn hở vui mừng” (Jn 4:36). Dĩ nhiên vào ngày Lễ Hiện Xuống, sau bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô, hoa mầu đã sum suê. Và như thế “khoảng ba ngàn người trở lại” (Cv 2:41); một niềm vui mừng lớn lao tràn ngập tâm hồn các tông đồ và cho Chúa của các ngài, Người Thợ Gieo Thần Linh.
Mùa gặt là hoa trái những hy sinh khổ hình của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã nói về “cực nhọc” của người gieo và điều này đặc biệt bao gồm khổ hình và tử nạn trên thánh giá. Chúa Kitô là “người (khác)” đã khổ cực lao động để có mùa gặt này và Ngài đã mở đường cho Thánh Linh chân lý bắt đầu hoạt động cách hữu hiệu từ Lễ Hiện Xuống qua phương tiện rao giảng tin mừng của các tông đồ.
Con đường khơi mở ra nhờ Chúa Kitô tự hiến hy sinh trên thánh giá: vết đâm thủng cạnh sườn Đấng bị đóng đinh thập giá đã minh chứng cái chết cứu độ của Ngài. Từ trái tim Ngài “lập tức máu và nước trào ra” (Jn 19:34), một dấu chỉ cái chết thể xác. Tuy nhiên, dữ kiện này cho chúng ta thấy sự chu toàn những lời huyền nhiệm Chúa Giêsu nói về việc Chúa Thánh Linh đến vào dịp Lễ Nhà Tạm (Lễ Lều) cuối cùng: “Người nào khát, hãy đến với Tôi mà uống. Người nào tin ở Tôi, như lời Sách Thánh đã nói, ‘Từ trái tim Ngài phát xuất những dòng nước hằng sống.’” Thánh sử nhận định: “Ngài nói về Thánh Linh, mà những người tin nơi Ngài sẽ nhận được” (Jn 7:37-39). Điều này được hiểu (rằng) những người tin sẽ nhận được nhiều hơn so với lượng nước mưa được cầu xin vào Lễ Nhà Tạm, rút ra từ suối nguồn đầy tràn nước hằng sống của Sion đã được các ngôn sứ loan báo (tc. Zech 14:8; Ez 47:1f).
Chúa Giêsu hứa về Chúa Thánh Linh: “Khi Thầy đi, Thầy sẽ gởi Ngài đến với anh em” (Jn 16:7). Thật vậy, nước từ cạnh sườn bị đâm lủng của Chúa Kitô (tc. Jn 19:34) là dấu chỉ của việc gởi đến này. Nước đó sẽ tuôn tràn đầy ắp: thực là “dòng sông (dòng nước) hằng sống,” một ẩn dụ (tỉ dung) diễn tả lòng quảng đại và nhân từ đặc biệt trong tình thương tự hiến của Thiên Chúa cho nhân loại. Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem minh xác sự tràn đầy thần linh mà Chúa Kitô đã hứa và lúc này ban qua Chúa Thánh Linh.
Lời thánh Luca mô tả việc Chúa Thánh Linh ngự xuống vào lúc kết thúc Lễ Mùa Gặt mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Thánh sử nói, “Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần ... (Cv 2:1). Mặt khác, Thánh Luca kể lại thêm một lần nữa: “mọi người cùng nhau”, không phải chỉ có các tông đồ, mà còn toàn thể những thành viên tiên khởi của Giáo Hội mới chào đời, gồm nam nhân và phụ nữ, cùng với Mẹ Chúa Giêsu. Đây chính là dữ kiện đầu tiên cần được ghi nhớ. Tuy nhiên, trong phần tường thuật biến cố Lễ Hiện Xuống cũng có những sự kiện khác không kém quan trọng xét theo quan điểm “tình trạng sung mãn.”
Thánh Luca viết: “Thình lình tiếng động vang trời tựa như cơn gió mạnh tràn ngập toàn thể ngôi nhà mọi người đang tụ họp ... Tất cả mọi người được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (Cv 2:2-4). Chúng ta cần chú ý từ ngữ nhấn mạnh tính cách đầy tràn, “tràn ngập ngôi nhà,” “mọi người đều tràn đầy ...” Nhận xét này có thể được coi như nối kết với điều Chúa Giêsu đã nói khi Ngài về với Chúa Cha: “Chỉ ít ngày anh em sẽ được rửa bằng (Chúa) Thánh Linh” (Cv 1:5). “Được rửa” có nghĩa “được nhận chìm” trong Chúa Thánh Linh: điều này được mô tả nhờ nghi lễ nhấn xuống nước trong Phép Rửa. “Việc nhấn xuống nước” (này) và việc “được tràn đầy” có cùng một ý nghĩa thực tế; xảy ra nơi các tông đồ và mọi người hiện diện trong căn phòng trên lầu do việc Chúa Thánh Linh ngự xuống.
Cộng đồng nguyên thủy ít ỏi cảm nghiệm “tràn đầy (Thánh Linh)” vào ngày Lễ Hiện Xuống có thể được coi là nối tiếp, nối dài, sự tràn đầy Chúa Thánh Linh Đấng “ở” trong Chúa Kitô, nơi Ngài có “toàn vẹn sung mãn” (tc. Col 1:19). Chúng ta đọc trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, tất cả mọi điều Chúa Giêsu “nói về Chúa Cha và về chính Ngài, Chúa Con, tuôn tràn Thánh Linh ở trong Ngài, Thánh Linh tràn đầy trái tim Ngài, bao phủ chính ‘ngã thể” Ngài,’ soi dẫn và làm linh hoạt hành động của Ngài từ sâu thẳm” (số 21). Vì lý do này Phúc Âm nói Chúa Giêsu “hân hoan vui mừng trong Chúa Thánh Linh” (Lc 10:21). Như thế “tình trạng tràn đầy” Chúa Thánh Linh ở trong Chúa Kitô được biểu lộ rõ rệt trong ngày Lễ Hiện Xuống do việc “tràn đầy (ơn) Chúa Thánh Linh” trên mọi người tụ họp trong căn phòng trên lầu. Thực thể Giáo Hội Chúa Kitô đã được thiết lập như thế, Thánh Tông Đồ Phaolô nói: “Anh chị em đã được tràn đầy sự sống trong Ngài, Đấng là đầu mọi quyền lực” (Col 2:10).
Cũng nên thêm rằng trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh “trở nên Chúa” của các tông đồ do việc biểu hiển quyền năng của Ngài trên nhân tính của họ. Việc biểu lộ quyền năng này có tính cách sung mãn ơn Thánh Linh: uy lực thiêng liêng, sức mạnh của lý trí, ý chí và con tim. Thánh Gioan viết: “... cho Ngài Đấng mà Thiên Chúa đã phái đi ... Ngài ban Thánh Linh vô ngần vô hạn” (Jn 3:34). Những lời này trước nhất áp dụng vào Chúa Kitô; nhưng cũng được áp dụng cho các tông đồ, những người đã được Chúa Kitô ban Thánh Linh, ngõ hầu đến lần các ngài có thể truyền thông Thánh Linh cho người khác.
Sau cùng, chúng ta ghi nhận, vào ngày Lễ Hiện Xuống, lời tiên tri Ezekiel được hoàn thành: “Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới và Ta sẽ đặt thần khí mới trong các ngươi” (Ez 36:26). Đích thực “hơi thở” này đem vui mừng đến cho những thợ gặt, để có thể cùng với ngôn sứ Isaiah nói được rằng: “Họ rất hân hoan trước thánh nhan Ngài như sung sướng vào lúc mùa gặt” (Is 9:3).
Lễ Ngũ Tuần, lễ mừng mùa gặt thời xưa, lúc này được trình bày tại trung tâm Jerusalem với ý nghĩa mới, là “mùa gặt” mới của Chúa Thánh Linh. Như thế hoàn thành lời ngôn sứ Joel: “Trong những ngày ấy Ta sẽ tuôn đổ thần linh của Ta trên mọi người” (Joel 2:28).
Buổi gặp chung ngày 5 tháng Bảy, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Sự Hiển Lộ Quyền Năng Thiên Chúa trong Lễ Hiện Xuống
Những điều chúng ta biết về Chúa Thánh Linh đều căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói về Ngài; đặc biệt khi nói đến ngày về với Chúa Cha: “Khi nào Thầy đi khỏi ... Chúa Thánh Linh sẽ đến với anh em” (tc. Jn 16:7). Cuộc “ra đi” có tính cách vượt qua của Chúa Kitô qua thánh giá, phục sinh và về trời kết thúc trong Lễ Hiện Xuống, tức là trong việc Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ. Tất cả mọi người “cùng một lòng một ý chuyên cần cầu nguyện” trong căn phòng trên lầu “cùng với Hiền Mẫu Chúa Giêsu” (tc. Cv 1:14) và toàn thể những người tạo thành hạt nhân của Giáo Hội nguyên thủy.
Trong biến cố Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh vẫn còn là Thiên Chúa huyền nhiệm (tc. Is 45:15), và Ngài vẫn như thế suốt dòng lịch sử Giáo Hội và thế giới. Có thể nói Chúa Thánh Linh ẩn trong bóng Chúa Kitô, Đấng là Chúa Con, Ngôi Lời, đồng nhất với Chúa Cha, “đã nhập thể và nhập thế (trở nên nhục thể, hữu hình và cư ngụ giữa chúng ta)” (Jn 1:14).
Trong việc Ngôi Lời nhập thể, Chúa Thánh Linh không hiển lộ cách hữu hình, Ngài vẫn là Thiên Chúa vô hình, Ngài bao phủ Đức Maria cách huyền nhiệm. Thiên sứ nói với Đức Trinh Nữ, vị nương tử được chọn làm con đường tất yếu để Thiên Chúa đến với nhân loại: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự đến với Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ” (Lc 1:35).
Cũng tương tự như thế, vào Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh “phủ bóng” trên Giáo Hội sắp chào đời, ngõ hầu dưới ảnh hưởng của Ngài, Giáo Hội có thể được ban cho sức mạnh “loan báo những thánh sự (kỳ công) của Thiên Chúa” (tc. Cv 2:11). Việc xảy ra trong lòng Đức Maria khi Ngôi Lời nhập thể vào Lễ Hiện Xuống hôm nay thể hiện cách rộng rãi hơn. Chúa Thánh Linh diệu hoạt như “Thiên Chúa ẩn hình (hidden)” trong ngôi vị ẩn tảng (vô hình, invisible) của Ngài.
Tuy nhiên, Lễ Hiện Xuống là một cuộc thần hiển (theophany) có nghĩa là sự biểu lộ quyền năng thần linh. Lễ Hiện Xuống hoàn tất việc hiển lộ trên Núi Sinai, sau khi ông Moses hướng dẫn dân Israel thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Theo truyền thống Do Thái giáo, việc hiển lộ trên Núi Sinai xảy ra năm mươi ngày sau Lễ Vượt Qua và Xuất Hành, ngày Lễ Ngũ Tuần.
“Núi Sinai chìm trong khói, vì Chúa ngự xuống trong lửa; và khói bốc lên như khói lò gạch, và khắp núi đó đất động mạnh” (Xh 19:18). Khi đó tính siêu việt tuyệt đối của “Đấng Hằng Hữu” hiển lộ (tc. Xh 3:14). Rồi tại chân Núi Horeb, ông Moses đã nghe từ giữa bụi cây rực lửa những lời: “Ngươi đừng tới gần; trút dép ra, vì nơi ngươi đang đứng là thánh địa” (Xh 3:5). Lúc này tại chân Núi Sinai Thiên Chúa nói với ông (Moses): “Ngươi hãy đi xuống cảnh cáo dân chúng, để chúng đừng kéo nhau lên nhìn Chúa mà nhiều người sẽ bị chết” (Xh 19:21).
Việc thần hiển trong Lễ Hiện Xuống là lần cuối cùng trong hàng loạt những lần hiển lộ mà trong đó Thiên Chúa tuần tự tỏ mình ra với nhân loại. Cuộc hiển lộ trong ngày Lễ Hiện Xuống hoàn tất việc Thiên Chúa tự khải; qua đó Ngài muốn in vào tâm hồn dân của Ngài niềm tin vào sự vinh hiển và siêu việt của Ngài và, cùng lúc ấy Ngài âm thầm hiện diện nội tại là “Thiên Chúa ở với chúng ta,” “Emmanuel.”
Cuộc thần hiển vào ngày Lễ Hiện Xuống, cùng với Đức Maria, liên quan trực tiếp tới toàn thể Giáo Hội ở chính cốt lõi căn nguyên của Giáo Hội và hoàn tất tiến trình lâu dài đã khởi đầu từ cựu ước. Nếu chúng ta nghiên cứu chi tiết sự việc xảy ra trong căn phòng trên lầu ghi trong Sách Công Vụ (2:1-11), chúng ta thấy những yếu tố khác nhau nhắc nhớ lại những cuộc thần hiển trước, đặc biệt là tại Núi Sinai, mà Thánh Luca dường như lưu ý tới khi ngài mô tả Chúa Thánh Linh ngự xuống. Theo trình thuật của Thánh Luca, cuộc thần hiển trong căn phòng trên lầu xảy ra với những yếu tố giống như tại Núi Sinai: “Khi tới ngày Lễ Ngũ Tuần, tất cả mọi người tụ họp tại một nơi. (Và) bất chợt một âm thanh từ trời đến tựa như cơn giông gió mạnh, và tràn ngập khắp ngôi nhà nơi mọi người đang hiện diện. Và xuất hiện (trên họ) những lưỡi lửa, và tách ra đậu trên mọi người. (Và) mọi người tràn đầy Chúa Thánh Linh và bắt đầu nói những ngôn ngữ khác, mà Thánh Linh làm cho họ nói được” (Cv 2:1-4).
Ba yếu tố căn bản đánh dấu bién cố đó: âm thanh của cơn giông gió mạnh, những lưỡi lửa, và đặc sủng nói những ngôn ngữ khác. Tất cả các yếu tố này đều có giá trị biểu tượng phong phú cần phải được ghi nhớ. Trong linh quang những sự kiện này chúng ta hiểu rõ hơn điều tác giả Sách Công Vụ lưu ý khi ngài nói những người hiện diện trong căn phòng trên lầu “đều tràn đầy Chúa Thánh Linh.”
“Một âm thanh tựa cơn giông gió mạnh.” Từ quan điểm ngữ học chúng ta thấy ở đây có một đặc tính giống nhau giữa gió (hơi gió thổi, hà hơi) và “thần khí.” Trong tiếng Hebrew (Do Thái), cũng như tiếng Hylạp (Greek), “gió = wind ” đồng âm với “thần khí = spirit”: “ruah – pneuma.” Chúng ta đọc trong Sách Sáng Thế (1:2): “Thần khí (ruah) Thiên Chúa là là trên mặt nước,” và trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Gió (pneuma) muốn thổi đi đâu thì thổi” (Jn 3:8).
Trong Phúc Âm cơn gió mạnh “loan báo” sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó là dấu chỉ cuộc thần hiển. Như chúng ta đọc trong Samuel II: “Ngài được nhìn thấy trong những cơn (làn) gió” (Sam II 22:11). Và Sách Ezekiel mở đầu bằng cuộc thần hiển: “Này, một cơn gió bão thổi từ phương bắc, và một đám mây lớn có những vành sáng bao quanh, và lửa lóe lên không ngừng” (Ezek 1:4). Đặc biệt, làn gió là biểu lộ sức mạnh thần linh thể hiện việc tạo dựng từ uông mang (tc. Stk 1:2). Gió cũng là sự diễn tả tự do của Thánh Linh: “Gió muốn thổi đi đâu thì thổi, và người ta nghe âm thanh của gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và đi đâu” (Jn 3:8). “Một âm thanh tựa như cơn giông gió mạnh” là yếu tố thứ nhất của cuộc thần hiển ngày Lễ Ngũ Tuần, một sự hiển lộ sức mạnh thần linh hoạt động trong Chúa Thánh Linh.
Yếu tố thứ hai của Lễ Hiện Xuống là “lửa”: “Xuất hiện trước mắt mọi người những lưỡi lửa (ngọn lửa, búp lửa)” (Cv 2:3). Trong Cựu Ước, lửa luôn hiện diện trong những lần Thiên Chúa hiển lộ. Chúng ta thấy điều này trong giao ước giữa Thiên Chúa và ông Abraham (tc. Stk 15:17); tương tự như vậy khi Thiên Chúa tỏ mình cho ông Moses nơi bụi gai rực lửa mà không bén cháy (tc. Xh 3:2); y hệt trường hợp những cột lửa dẫn đường dân Israel qua sa mạc ban đêm (tc. Xh 13:21-22). Lửa hiện diện cách đặc biệt trong lần Thiên Chúa hiển lộ tại Núi Sinai (tc. Xh 19:18), và cũng trong những lần thần hiển theo cánh chung học (eschatological theophanies), được các ngôn sứ mô tả (tc. Is 4:5; 64:1; Dan 7:9 v.v.). Vì thế lửa là biểu tượng của Thiên Chúa.
Trong nhiều dịp Sách Thánh nói “Thiên Chúa chúng ta là ngọn lửa thiêu” (Dt 12:19; Tl 4:24; 9:3). Trong nghi lễ toàn thiêu, việc thiêu hủy lễ vật đã được hiến dâng không kém quan trọng so với hương thơm tiêu biểu cho việc của lễ hiến dâng bay lên tới Thiên Chúa; lửa là “thừa tác của Thiên Chúa” (tc. Tv 104:4), lửa tiêu biểu việc thanh tẩy người ta khỏi tội lỗi, như bạc được tinh luyện và vàng thử trong lửa (tc. Zec 13:8-9).
Trong lần thần hiển Lễ Hiện Xuống (Lễ Ngũ Tuần), có những lưỡi lửa trên đầu mỗi người hiện diện trong căn phòng trên lầu. Nếu lửa tiêu biểu sự hiện diện của Thiên Chúa, lưỡi lửa tách ra và ở (đậu) trên đầu các vị đó chứng tỏ Thiên Chúa Thánh Linh “ngự xuống” trên các vị đó. Ngài ban ân sủng cho mỗi người để chuẩn bị cho sứ mệnh của họ.
Biểu tượng tính của đa ngôn ngữ
Ơn Chúa Thánh Linh, lửa của Thiên Chúa, mang hình dáng đặc biệt, hình dáng “cái lưỡi.” Tác giả Sách Công Vụ lập tức giải thích ý nghĩa ‘cái lưỡi,’ ngài nói: “Các ngài bắt đầu nói những ngôn ngữ khác lạ, mà Chúa Thánh Linh ban cho các ngài nói được” (Cv 2:4). Những lời phát xuất từ Chúa Thánh Linh “tựa như lửa” (tc. Jer 5:14; 23:29). Những lời đó có hiệu lực tính mà ngôn ngữ loài người không có. Trích dẫn trên là yếu tố thứ ba của việc Thiên Chúa xuất hiện trong Lễ Hiện Xuống, Thiên Chúa Thánh Linh, khi ban chính Ngài cho nhân loại, đã sản sinh ra trong họ một hiệu lực thực tiễn và tiêu biểu. Hiệu lực đó thực tiễn vì liên quan đến ngôn ngữ là khả năng tự nhiên của con người. Tuy nhiên, hiệu lực đó cũng có tính cách tiêu biểu vì những người này “từ Galilee,” trong khi dùng tiếng mẹ đẻ hoặc thổ ngữ, đã nói “bằng nhiều ngôn ngữ khác,” để từng người trong đám đông mau chóng tụ tập đó nghe hiểu theo “tiếng địa phương của họ,” mặc dầu họ thuộc nhiều sắc dân có thổ ngữ khác nhau (tc. Cv 2:6).
Tính cách biểu tượng của “việc nói nhiều ngôn ngữ khác nhau” rất có ý nghĩa. Theo Phúc Âm, tình trạng đa ngôn ngữ là dấu chỉ đa chủng, và dĩ nhiên cũng là dấu chỉ việc người ta phải phân tán do việc xây tháp Babel (tc. St 11:5-9). Khi đó ngôn ngữ duy nhất mọi người đều hiểu bị chia thành nhiều tiếng nói khác nhau, khiến người ta không hiểu nhau. Bây giờ biểu trưng của tháp Babel được nối tiếp bởi biểu tượng đa ngôn ngữ của Lễ Hiện Xuống, biểu hiện đó cho thấy tình trạng trái ngược với việc không hiểu ngôn ngữ khác nhau. Nhiều ngôn ngữ khó hiểu đã mất tính chất đặc thù, hoặc ít nhất không còn là biểu tượng của sự phân chia. Những ngôn ngữ khác nhau đã nhường lối cho hoạt động mới của Chúa Thánh Linh, Đấng qua các tông đồ và Giáo Hội đem tới việc hiệp nhất tinh thần những người có gốc gác, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau theo quan điểm sự hiệp thông toàn hảo trong Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã loan báo và nài xin (tc. Jn 17:11, 21-22).
Chúng ta kết luận bằng những lời Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Dei Verbum (Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa): “Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa nơi trần gian. Ngài mạc khải Thân Phụ Ngài và tự khải (mạc khải Chính Ngài) qua ngôn từ, hành động, và hoàn tất công trình của Ngài bằng tử nạn, phục sinh và thăng thiên, và phái Chúa Thánh Linh đến. Bị treo lên khỏi mặt đất (tc. Jn 12:32), Ngài kéo mọi sự đến với Mình, Ngài là Đấng duy nhất mà ngôn từ vĩnh cửu (có lời hằng sống) (tc. Jn 6:68). Mầu nhiệm này chưa bao giờ được bầy tỏ cho các thế hệ khác biết như lúc này được mạc khải trong Chúa Thánh Linh cho các thánh tông đồ và tiên tri (tc. Eph 3:4-6) để họ rao giảng Phúc Âm, hân hoan tin tưởng vào Chúa Giêsu, Đấng được xức dầu tôn vinh là Chúa, và hiệp nhất Giáo Hội” (DV 17). Đó là công việc vĩ đại của Chúa Thánh Linh và Giáo Hội trong tâm hồn nhân loại và trong dòng lịch sử.
Buổi gặp chung ngày 12 tháng Bảy, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Việc Tuôn Tràn Sự Sống Thần Linh và Ý Nghĩa Lễ Hiện Xuống
Biến cố Lễ Hiện Xuống trong căn phòng trên lầu tại Jerusalem là cuộc thần hiển đặc biệt. Chúng ta đã theo dõi các yếu tố bên ngoài quan trọng của sự kiện này: “âm thanh của làn gió mạnh,” “lưỡi lửa” trên đầu những người tụ họp trong căn phòng trên lầu và sau cùng “việc nói nhiều ngôn ngữ khác lạ.” Tất cả các yếu tố này cho thấy không phải chỉ có sự hiện diện của Chúa Thánh Linh mà thôi, nhưng cũng cho thấy việc Ngài ngự xuống cách đặc biệt trên những người hiện diện, “việc Ngài tự hiến ban,” đã tạo ra trong các vị đó sự biến đổi thấy rõ như được kể trong Công Vụ Tông Đồ (2:1-12). Lễ Hiện Xuống chấm dứt chu kỳ những cuộc thần hiển trong Cựu Ước, mà lần quan trọng nhất là khi hiện ra với ông Moses trên Núi Sinai.
Từ đầu loạt những suy niệm về Thánh Linh học này, chúng ta cũng đã nhắc đến sự nối kết giữa Lễ Hiện Xuống với Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, đặc biệt là dưới viễn ảnh Ngài ra đi về với Chúa Cha qua tử nạn trên thập giá, phục sinh và thăng thiên. Lễ Hiện Xuống là sự hoàn thành điều Chúa Giêsu loan báo với các tông đồ trong “lời từ biệt” tại căn phòng trên lầu ở Jerusalem ngày hôm trước khi Ngài chịu khổ hình. Dịp đó Chúa Giêsu nói về “Đấng Bảo Trợ” mới: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Bảo Trợ khác, ở với anh em mãi mãi” (Jn 16:7). Khi nói về việc Ngài ra đi qua cuộc tử nạn cứu độ trên thánh giá, Chúa Giêsu nói: “Chẳng bao lâu nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, nhưng anh em sẽ thấy Thầy; vì Thầy hằng sống” (Jn 14:19).
Ở đây câu nói “Thầy hằng sống” đưa lại cho chúng ta một khía cạnh mới về sự nối kết giữa Lễ Vượt Qua và Lễ Hiện Xuống. Đó là Chúa Giêsu nói về sự phục sinh. “Anh em sẽ sống” cuộc đời của anh em như sẽ được khải hiển và minh xác trong việc phục sinh của Thầy. Việc chuyển hóa sự sống này, biểu lộ trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, được thể hiện cách rõ ràng khi Chúa Thánh Linh hiện xuống. Hiển nhiên, những lời Chúa Kitô phản ánh phần kết của lời ngôn sứ Ezekiel trong đó Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ đặt Thánh Linh của Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống” (Ez. 37:14). Vì thế, theo cấu trúc, Lễ Hiện Xuống nối kết với Lễ Vượt Qua. Lễ Hiện Xuống gắn liền với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô: “Thầy sống và anh em sẽ sống.”
Do việc Chúa Thánh Linh ngự đến, lời Chúa Kitô cầu nguyện trong căn phòng trên lầu được viên mãn: “Lạy Cha, giờ đã đến; xin vinh danh Con của Cha để Con của Cha tôn vinh Cha, vì Cha đã ban cho Con quyền năng trên mọi người, ban sự sống cho tất cả những người Cha đã ban cho Con” (Jn 17:1-2).
Trong mầu nhiệm vượt qua, Chúa Giêsu Kitô là nguyên lý sự sống. Chúa Thánh Linh ban sự sống rút ra từ ơn cứu độ Chúa Kitô đã thể hiện: “Ngài sẽ lấy những gì là của Thầy” (Jn 16:14). Chính Chúa Giêsu đã nói: “Chính Thánh Linh ban sự sống” (Jn 6:63). Thánh Phaolô rao giảng tương tự: “lề luật giết chết, nhưng Thánh Linh Thần Khí ban sự sống” (2 Cor 3:6). Lễ Hiện Xuống là hào quang chân lý mà Giáo Hội tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Chúa Thánh Linh là Đấng ban sự sống.” Cùng với Lễ Vượt Qua, Lễ Hiện Xuống là cực điểm của chương trình cứu độ của Chúa Ba Ngôi trong lịch sử nhân loại.
Các tông đồ tụ họp vào ngày Lễ Hiện Xuống trong căn phòng trên lầu ở Jerusalem cùng với Đức Maria, Hiền Mẫu Chúa Giêsu, và các môn đệ nam nữ khác (của Chúa). Tất cả các ngài là những người đầu tiên hưởng hoa trái việc Chúa Kitô phục sinh.
Đối với các tông đồ và môn đệ Chúa Giêsu, Lễ Hiện Xuống là ngày phục sinh, là sự sống mới trong Chúa Thánh Linh. Sự sống mới này là phục sinh tinh thần mà chúng ta có thể thấy rõ nơi việc biến đổi các tông đồ trong những ngày từ thứ Sáu Chúa Kitô chịu khổ nạn, qua ngày Phục Sinh, cho tới Lễ Hiện Xuống. Chứng kiến Thầy bị bắt và chết trên thánh giá là nỗi thống khổ đối với các ngài, mà phải khó khăn lắm các ngài mới hồi phục được. Điều này giải thích sự hoài nghi của các ông khi được tin Chúa Kitô phục sinh, cả đến khi các ông nhìn thấy tận mắt Thầy đã phục sinh. Phúc Âm nhắc lại điều này nhiều lần: “Các ông không tin” (Mc 16:11); “một vài người hoài nghi” (Mt 18:17). Chính Chúa Giêsu trách nhẹ các ông: “Tại sao anh em bối rối hoảng hốt, và tại sao lòng anh em ngờ vực?” (Lc 24:38). Chúa Giêsu cố thuyết phục các ông về chính Ngài, cho các ông thấy Ngài không phải là “ma” nhưng có “xương (có) thịt.” Chính vì lý do này mà Chúa đã ăn miếng cá nướng trước mắt các ông (tc. Lc 24:37-43).
Sự kiện Lễ Hiện Xuống dứt khoát khắc phục thái độ hoài nghi của các môn đệ: chân lý phục sinh hoàn toàn tràn ngập trí óc và chiếm trọn ý chí các ngài. Lúc đó “từ trái tim các ngài tràn ra những dòng nước hằng sống” (tc. Jn 7:38), như Chúa Giêsu đã nói trước bằng ẩn dụ (tỉ dung) khi nói về Chúa Thánh Linh.
Nhờ việc làm của Chúa Thánh Linh các tông đồ và môn đệ trở nên “dân Phục Sinh,” những tín hữu và chứng nhân việc Chúa Kitô sống lại. Không còn hồ nghi gì nữa, các ngài nhận chân lý đó như biến cố quyết định của chính mình vậy. Nên từ ngày Lễ Hiện Xuống đó các ngài là những người loan báo “những kỳ công vĩ đại của Thượng Đế (magnalia Dei)” (Cv 2:11). Các ngài được ban cho khả năng làm việc đó xuất phát từ nội tâm. Chúa Thánh Linh tác động việc biến đổi tâm can các tông đồ và môn đệ. Sự sống mới đó khởi nguyên từ việc Chúa Kitô phục sinh mà bây giờ được Đấng An Ủi mới truyền vào cho những người theo Chúa Kitô. Chúng ta có thể áp dụng cho sự chuyển hóa này điều ngôn sứ Isaiah đã nói bóng nói gió (nói theo tỉ dung, nói theo ẩn dụ pháp): “khi Thần Linh được từ trời cao trút xuống, sa mạc sẽ trở nên những vườn cây sai trái, và những vườn cây sai trái tựa như khu rừng” (Is 32:15). Thực vậy vào ngày Lễ Hiện Xuống hoa trái Phúc Âm rực sáng: Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của người chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống” (Mt 22:32), “vì tất cả đều cùng sống theo Ngài” (Lc 20:38).
Việc thần hiển Lễ Hiện Xuống mở ra cho tất cả mọi người dự phóng (viễn tượng) mới mẻ của đời sống. Biến cố Lễ Hiện Xuống là khởi đầu việc Thiên Chúa tái “ban chính mình” cho nhân loại. Các tông đồ là dấu chỉ và là lời cam kết không phải riêng cho “dân Do Thái mới,” mà cũng cho “nhân loại mới” được tác động bởi Mầu Nhiệm Vượt Qua. Theo lời Thánh Phaolô: “Hành động công chính của một người làm cho mọi người được tha thứ và được sống ... Nơi nào tội lỗi gia tăng, ân sủng càng tràn đầy gấp bội” (Rom 5:18-20). Chiến thắng này của sự sống đối với sự chết, của ân sủng vượt trên tội lỗi, mà Chúa Kitô đã thể hiện, lúc này Chúa Thánh Linh hoạt động trong nhân loại. Nhờ Chúa Thánh Linh, chiến thắng đó sinh kết quả mầu nhiệm cứu độ trong tâm hồn chúng ta (tc. Rom 5:5; Gal 5:22).
Lễ Hiện Xuống là khởi đầu tiến trình đổi mới tâm linh, thể hiện chương trình cứu độ theo chiều kích lịch sử và thế mạt học, bao trùm trên mọi tạo vật.
Trong Tông Huấn về Chúa Thánh Linh, Dominum et Vivificantem, cha đã viết: “Lễ Hiện Xuống là khởi đầu mới liên quan với nguyên thủy việc Thiên Chúa tự hiến mình cứu độ, liên kết với mầu nhiệm tạo dựng. Đây là điều chúng ta đọc từ những lời đầu tiên của Sách Sáng Thế: ‘Khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất ... và Thánh Linh (Thần Khí) Thiên Chúa (uah Elohim) bay là là trên mặt nước’ (1:1f.). Ý niệm sáng tạo này theo Phúc Âm không phải chỉ gồm có việc tạo dựng vũ trụ, tức là làm cho hiện hữu, nhưng cũng có sự hiện diện của Thánh Linh Thiên Chúa trong việc tạo dựng, nghĩa là khởi đầu việc Thiên Chúa cứu độ tự tiếp xúc với vạn vật Ngài tạo dựng. Điều này đúng trước tiên với toàn thể nhân loại, đã được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa” (số 12). Vào Lễ Hiện Xuống “sự khởi đầu mới” của việc Thiên Chúa tự hiến cứu độ được kết hợp với Mầu Nhiệm Vượt Qua, nguồn sống mới.
Buổi gặp chung ngày 22 tháng Bảy, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Lễ Hiện Xuống và Ơn Được Thiên Chúa Thừa Nhận
Chúng ta đã phân tích những yếu tố hữu hình ghi trong Công Vụ Tông Đồ về cuộc thần hiển trong Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem, như “âm thanh của cơn gió mạnh,” “những lưỡi lửa” ở trên đầu những người tụ họp trong căn phòng trên lầu, và sau cùng là hiện tượng ngôn ngữ, nhờ đó tất cả những người nói “những ngôn ngữ khác nhau” hiện diện đều hiểu lời các tông đồ. Qua những biểu thị bên ngoài, chúng ta cũng nhận thấy yếu tố quan trọng cốt tủy là sự chuyển hóa nội tâm các tông đồ. Chính việc chuyển hóa này cho thấy sự hiện diện và hành động của Thần Linh Bảo Trợ, mà khi về với Chúa Cha Chúa Kitô đã hứa với các tông đồ.
Chúa Thánh Linh ngự xuống nối kết mật thiết với Mầu Nhiệm Vượt Qua, thể hiện trong hy lễ cứu chuộc trên thánh giá và việc Chúa Kitô phục sinh, đem lại sự sống mới. Vào ngày Lễ Hiện Xuống, do Chúa Thánh Linh hướng dẫn, các tông đồ hoàn toàn tham dự vào đời sống mới này, và nhờ đó các ngài được tràn đầy sức mạnh để làm chứng Chúa phục sinh.
Vào ngày Lễ Hiện Xuống chúng ta thấy rõ Chúa Thánh Linh là Đấng ban sự sống. Đây là điều chúng ta tuyên tín trong kinh Tin Kính: “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.” Điều này hoàn tất chương trình Thiên Chúa tự thông ban (self-communication) khi Ngài tự hiến cho nhân loại, được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Ngài. Thần sủng Thiên Chúa tự hiến này, vốn là nguồn gốc mầu nhiệm tạo dựng nhân loại, nâng nhân loại lên hàng siêu nhiên và là lời hứa ban ơn cứu độ sau khi tội lỗi đã đi vào lịch sử. Ân sủng Thiên Chúa tự hiến hoàn thành mầu nhiệm cứu độ mà Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, thể hiện qua hy sinh khổ giá. Mầu nhiệm “Thiên Chúa tự hiến” nối với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô và hoàn tất trong Lễ Hiện Xuống.
Cuộc thần hiển ở Jerusalem biểu hiện việc Thiên Chúa tự hiến tái diễn và khời đầu trong Chúa Thánh Linh. Trong ngày đó, các tông đồ và tất cả mọi người hiện diện cùng với Đức Maria - Mẹ Chúa Kitô - trong căn phòng trên lầu, là những người đầu tiên nhận được sự tuôn tràn đời sống thần linh mới mẻ trong các ngài và qua các ngài, sự sống thần linh được ban cho mọi người trong Giáo Hội và qua Giáo Hội. Cũng như ơn cứu chuộc, sự sống thần linh là ơn phổ quát Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại.
Khởi đâu sự sống mới thể hiện nhờ ơn thần linh thừa nhận. Chúa Kitô giành được ơn này cho nhân loại qua công cuộc cứu độ, và nhờ Chúa Thánh Linh mà tràn đến cho tất cả mọi người. Có thể nói Chúa Thánh Linh tái tạo con người giống hình ảnh Con Một, duy nhất được sinh ra, của Chúa Cha. Theo thể cách trên, Ngôi Lời nhập thể canh tân và củng cố “ơn Thiên Chúa tự hiến” trong công cuộc cứu độ nhân loại, nhờ đó mà có “ơn thông phần bản tính thần linh” như đã nói tới trong Thư II của Thánh Phêrô (tc. 2 Pet. 1:4). Trong Thư gửi giáo đoàn tại Roma, Thánh Phaolô cũng nói về Chúa Giêsu Kitô: “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Linh, Ngài đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rom 1:4).
Việc phục sinh thể hiện tính cách sung mãn quyền năng Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vì thế chia sẻ với những người đón nhận việc làm của Chúa Thánh Linh tức là ơn lại được Thiên Chúa nhìn nhận làm con. Sau khi nói về Ngôi Lời nhập thể, Thánh Gioan khẳng định trong phần mở đầu Sách Phúc Âm: “Ngài (Chúa Kitô) ban quyền làm con Thiên Chúa cho tất cả những người nhận Ngài, những người tin vào danh Ngài” (Jn 1:2). Hai Thánh Tông Đồ Gioan và Phaolô hiểu quan niệm thần linh thừa nhận như là đặc ân sự sống mới ban cho nhân loại, mà Chúa Kitô thể hiện qua Chúa Thánh Linh.
Như chúng ta đọc trong Thư I của Thánh Gioan, việc thừa nhận làm con là đặc ân của Chúa Cha: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta chừng nào, đến độ cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa. Và thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Jn 3:1). Trong Thư gửi giáo đoàn Roma, Thánh Phaolô trình bày cặn kẽ cũng chân lý này trong linh quang sự an bài đời đời của Thiên Chúa: “Đối với những người Ngài đã biết từ trước, Ngài cũng tiền định cho trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, ngõ hầu Chúa Con là trưởng tử giữa đàn em đông đảo” (Rom 8:9). Trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus, Thánh Phaolô cũng nói về quyền làm con đối với ơn thần linh thừa nhận, vì Thiên Chúa đã tiền định chúng ta “được là nghĩa tử của Ngài nhờ Chúa Giêsu Kitô” (Eph 1:5).
Hơn nữa, trong Thư gửi giáo đoàn tại Galat, Thánh Phaolô nói về chương trình được Thiên Chúa Ba Ngôi cưu mang từ thuở đời đời. Chương trình này đã hoàn tất trong “thời gian mãn túc” với việc Chúa Con nhập thể làm cho chúng ta thành nghĩa tử: “Thiên Chúa đã phái Con của Ngài đến, sinh làm con của một nương tử ... hầu chúng ta được nhận làm nghĩa tử của Ngài” (Gal 4:4-5). Theo Thánh Phaolô, sứ mệnh của Chúa Thánh Linh liên kết mật thiết với sứ mệnh (missio) của Chúa Con trong chương trình của Chúa Ba Ngôi. Thánh Phaolô nói thêm: “Và vì chúng ta là con, Thiên Chúa đã phái Thánh Linh của Chúa Con vào tâm hồn chúng ta bật ra tiếng, ‘Abba! Cha ơi!’” (Gal 4:6).
Ở đây chúng ta đề cập tới mục đích của mầu nhiệm đã mô tả trong Lễ Hiện Xuống: Chúa Thánh Linh ngự vào “tâm hồn chúng ta” là Thánh Linh của Chúa Con. Chính vì Ngài là Thánh Linh của Chúa Con, Ngài có thể làm cho chúng ta cùng với Chúa Kitô kêu lên Chúa Cha: “Abba, Cha ơi!”
Ngôn từ “Abba, Cha ơi!” diễn tả sự kiện không những chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, “mà hiển nhiên chúng ta vốn là con Thiên Chúa,” như Thánh Tông Đồ Gioan nhấn mạnh trong Thư I của ngài (3:1). Nhờ đặc ân này, chúng ta thực sự chia sẻ quyền làm con dành riêng cho Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Đây là chân lý siêu nhiên, về tình liên đới của chúng ta với Chúa Kitô, một chân lý chỉ có thể nhận thức được bởi những người “đã biết Chúa Cha” (tc. 1 Jn 2:13).
Nhờ Chúa Thánh Linh, qua bằng chứng mà Ngài ban cho tinh thần nhân loại, chúng ta mới có thể hiểu biết chân lý đó. Nơi đấy, Chúa Thánh Linh hiện diện là nguyên lý và nguồn sống trong tâm hồn nhân loại. Thánh Phaolô viết: “Chính Thánh Linh làm chứng cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con Thiên Chúa. Và nếu là con (thì) là người thừa kế, người thừa kế của Thiên Chúa và đồng thừa kế với Chúa Kitô” (Rom 8:16-17). Tất nhiên “Anh em không lãnh nhận tinh thần nô lệ để lại rơi vào tình trạng sợ sệt như xưa, nhưng anh em đã thụ nhận quyền tử tức (tinh thần của quyền làm con), và tự nhiên chúng ta kêu lên: ‘Abba, Cha ơi!’” (Rom 8:15).
Chúa Thánh Linh tái tạo cho nhân loại hình ảnh Chúa Con, như thế thiết lập mối liên hệ huynh đệ mật thiết với Chúa Kitô và đưa dẫn chúng ta “cùng cất tiếng kêu lên ‘Abba, Cha ơi!’” Vì thế Thánh Tông Đồ viết: “được Thánh Linh Thiên Chúa hướng dẫn, tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa” (Rom 8:14). Chúa Thánh Linh “hà hơi” thần khí của Chúa Con vào lòng các tín hữu, thiết lập nơi chúng ta quyền làm con thần linh giống Chúa Kitô và kết hiệp với Chúa Kitô. Chúa Thánh Linh khuôn đúc tinh thần nhân loại theo mẫu mực thần linh là Chúa Kitô. Như thế, qua Chúa Thánh Linh, chúng ta biết Chúa Kitô trong những trang Phúc Âm là “hồn sống của nhân loại.” Con người trong tư duy, yêu mến, xét đoán, hành động và ngay cả đến tri cảm đều phù hợp với Chúa Kitô và “giống Chúa Kitô”.
Công trình trên của Chúa Thánh Linh khởi đầu mới mẻ vào Lễ Hiện Xuống ở Jerusalem, ở thượng đỉnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua. Từ ngày đó trở đi, Chúa Kitô ở trong chúng ta và hoạt động trong chúng ta qua Chúa Thánh Linh, thi hành chương trình đời đời của Chúa Cha, Ngài đã tiền định cho chúng ta “được nhận làm nghĩa tử của Ngài nhờ Chúa Giêsu Kitô” (Eph 1:5). Chúng ta phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại và suy trước gẫm sau chân lý huyền diệu này trong đức tin của chúng ta.
Buổi gặp chung ngày 26 tháng Bảy, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Lễ Hiện Xuống hoàn thành Giao Ước Mới
Cuộc Vượt Qua trên thánh giá và phục sinh của Chúa Kitô đạt tới cực điểm trong Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem. Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ, khi các ngài tụ họp trong căn phòng trên lầu cùng với Đức Maria và cộng đồng đầu tiên các môn đệ Chúa Kitô, là sự hoàn thành lời hứa và những loan báo mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài. Lễ Hiện Xuống là cuộc thần hiển công khai long trọng của giao ước mới thiết lập giữa Thiên Chúa và nhân loại “trong Máu” Chúa Kitô mà Ngài đã nói lúc Tiệc Ly: “đây là giao ước mới trong máu Thầy” (tc. 1 Cor 11:25). Giao ước mới này chung quyết và đời đời được chuẩn bị qua các giao ước cũ đã từng nói tới trong Cựu Ước. Những giao ước đó gồm có lời loan báo về giao ước cuối cùng mà Thiên Chúa lập với nhân loại trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Linh. Lời mạc khải qua ngôn sứ Ezekiel là một mời gọi chiêm ngưỡng biến cố Lễ Hiện Xuống trong linh quang lời tiên tri: “(Và) Ta sẽ đặt thần khí của Ta trong các ngươi” (Ez 36:27).
Giao ước giữa Thiên Chúa với ông Noe và ông Abraham
Chúng ta biết Lễ Hiện Xuống đã có thời là lễ mùa gặt (tc. Xh 23:14), lễ đó về sau cũng là cử mừng tưởng niệm và canh tân giao ước đã được Thiên Chúa lập với dân Israel sau khi giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập (tc. 2 Cor 15:10-13). Sách Xuất Hành ghi: trong bất cứ lễ nào nói trên, ông Moses “cầm sách giao ước, và đọc cho toàn dân nghe; và họ đều nói: ‘Tất cả mọi điều Thiên Chúa đã nói chúng tôi xin tuân hành, và chúng tôi xin tuân giữ.’ Và ông Moses lấy máu rảy trên dân chúng và nói, ‘Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em dựa trên những lời này’” (Xh 24:7-8).
Giao ước Núi Sinai được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân Israel. Theo Phúc Âm thì trước đó đã có các giao ước Thiên Chúa lập với tổ phụ Noe (Noah) và với ông Abraham.
Trong giao ước với ông Noe sau đại hồng thủy, Thiên Chúa cho thấy Ngài thiết lập một giao ước không phải chỉ với nhân loại mà còn với toàn thể mọi tạo vật trong thế giới hữu hình: “Này đây, Ta thiết lập giao ước của Ta với các ngươi và hậu duệ của các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi ... với mọi loài vật từ trong con tầu đi ra” (St 9:9-10).
Giao ước với ông Abraham cũng có một ý nghĩa khác nữa. Thiên Chúa đã chọn và lập giao ước với một người vì hậu duệ của người đó: “Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta và ngươi và con cháu của ngươi sau này suốt mọi thế hệ. Đây là một giao ước vĩnh cửu, Ta là Thiên Chúa của ngươi và hậu duệ của ngươi” (St 17:7). Giao ước với ông Abraham cho thấy chương trình Thiên Chúa chọn một dân tộc riêng, dân tộc Israel, mà từ đó Đấng Thiên Sai được hứa từ trước sẽ sinh ra.
Luật Thiên Chúa ban trong giao ước Núi Sinai
Giao ước với ông Abraham không bao gồm một lề luật chính xác và sát nghĩa. Thần linh luật được ban sau này, trong giao ước tại Núi Sinai. Thiên Chúa hứa ban luật đó với ông Moses và ông đã lên núi theo lời Ngài gọi: “Vì thế, lúc này, nếu các ngươi vâng nghe lời Ta và tuân giữ giao ước của Ta, các ngươi sẽ là của riêng Ta giữa muôn dân; vì toàn thể địa cầu là của Ta ... Đây là những lời ngươi sẽ phải nói với con cái Israel” (Xh 19:5). Ông Moses cho các trưởng lão dân Israel biết lời Thiên Chúa hứa, “và toàn dân đã đồng thanh đáp lại và nói,’ Mọi điều Thiên Chúa đã nói chúng tôi xin tuân hành.’ Và ông Moses trình lên Chúa những lời dân chúng đã tuyên hứa” (Xh 19:8).
Lời Sách Thánh trên đây, mô tả việc chuẩn bị giao ước và hành động trung gian của ông Moses làm nổi bật hình ảnh vị đại lãnh tụ dân Israel và cũng là người chuyển trao luật Chúa, cho thấy nguồn gốc thần linh của bộ luật ông chuyển trao cho dân. Nhưng điều đó cũng cho hiểu giao ước Núi Sinai gồm sự cam kết từ cả hai phía: Chúa đã chọn dân Israel làm dân riêng, “một vương quốc tư tế và một dân thánh” (Xh 19:6). Nhưng cam kết giao ước đó có điều kiện là dân Israel phải trung thành với luật của Chúa trong Thập Giới và những luật lệ cùng những qui định khác. Về phần dân Israel, họ tuyên hứa trung thành với giao ước.
Lịch sử giao ước cũ cho thấy nhiều giai đoạn dân Israel bất trung phản nghịch Thượng Đế. Các ngôn sứ đặc biệt quở trách dân Israel vì tội bất trung, và các ngài nhắc lại những biến cố đáng than khóc trong lịch sử của họ như là hình phạt của Thiên Chúa. Các ngôn sứ loan báo lời đe dọa hình phạt nặng nề hơn, nhưng đồng thời cũng loan báo lời giao ước khác. Chúng ta đọc trong Sách ngôn sứ Jeremia: “Này, Chúa phán sẽ đến những ngày, Ta lập một giao ước mới với nhà Israel và nhà Judah, không như giao ước Ta đã lập với tổ tiên chúng khi Ta cầm tay dắt chúng ra khỏi đất Ai Cập, giao ước mà chúng đã vi phạm” (31:31-32).
Giao ước mới sau này liên can đến con người mật thiết hơn. Chúng ta đọc thêm: “Chúa phán đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày ấy (sau những ngày giao ước đã bị vi phạm): Ta sẽ đặt thánh luật của Ta vào trong chúng, và Ta sẽ viết thánh luật đó nơi trái tim chúng, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Jer 31:33).
Sáng kiến mới này của Thiên Chúa liên quan đặc biệt đến “nội tâm” con người. Luật của Thiên Chúa sẽ đặt vào đáy lòng “người ta” (cái “tôi”, cá thể, của con người). Lời hứa “Ta sẽ viết luật của Ta trong trái tim chúng” xác định đặc tính nội tâm này. Chính vì thế luật Chúa đồng hóa với nội tâm con người. Chỉ khi đó Thiên Chúa mới thực sự là Thiên Chúa “của họ.”
Theo ngôn sứ Isaiah, luật Chúa tạo thành giao ước mới sẽ được thiết lập nơi tinh thần của con người nhờ thánh linh Thiên Chúa. Thánh Linh của Chúa “sẽ ngự trên nhánh cây từ gốc Jesse” (Is 11:2), nghĩa là trên Đấng Thiên Sai. Những lời ngôn sứ Isaiah sẽ được hoàn tất trong Đấng Thiên Sai: “Thánh Linh Thiên Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tôi” (Is 61:1). Thánh Linh Thiên Chúa hướng dẫn Đấng Thiên Sai chu toàn giao ước đó, canh tân và làm cho giao ước đó vĩnh cửu. Đây là điều ngôn sứ Isaiah loan báo: “Chúa phán phần Ta, đây là giao ước của Ta với chúng: thần khí của Ta ở trên ngươi và các lời Ta ở trên miệng ngươi, sẽ không rời khỏi miệng ngươi, cũng sẽ không rời khỏi môi miệng con cái ngươi, và khỏi miệng cháu chắt ngươi, Chúa phán, từ nay cho đến muôn đời” (Is 59:21).
Thị kiến của ngôn sứ Isaiah dù xảy ra vào giai đoạn lịch sử và thời ngôn sứ nào chăng nữa, thì chúng ta cũng có thể nói chắc chắn rằng những lời tiên tri đó đã được hoàn thành trọn vẹn trong Chúa Kitô, nghĩa là trong Ngôi Lời Đấng là chính những lời tiên tri đó. Lời tiên tri đó còn là “sở hữu của Chúa Cha” nữa vì Chúa Cha là “Đấng đã phái Chúa Kitô đi” (tc. Jn 5:37). Trong Phúc Âm, Chúa Kitô canh tân, kiện toàn và làm sinh động lề luật; Và trong Chúa Thánh Linh Đấng được phái đến do công cuộc cứu độ qua thánh giá và phục sinh của Chúa Kitô. Như vậy minh chứng đầy đủ những điều Thiên Chúa đã loan báo qua các ngôn sứ trong giao ước cũ. Ngôn sứ Ezekiel đã nói lời Thiên Chúa về giao ước mới: “Ta sẽ cho các ngươi trái tim mới và thần khí mới: Ta sẽ lấy trái tim bằng đá trong thân xác các ngươi và cho các ngươi trái tim bằng thịt. Và Ta sẽ đặt thần khí của Ta trong các ngươi, làm cho các ngươi bước đi (trong thánh luật của Ta) và cẩn thủ tuân giữ lề luật của Ta ... và các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Ez 36:26-28).
Trong sự kiện Lễ Hiện Xuống ở Jerusalem, việc Chúa Thánh Linh ngự xuống hoàn tất vĩnh viễn giao ước mới đời đời của Thiên Chúa với loài người đã được niêm ấn bằng máu Con Một của Ngài, là thời điểm vinh hiển của “Ân sủng từ trời cao” (tc. Giacôbê 1:17). Trong giao ước đó, Thiên Chúa Ba Ngôi “tự hiến” không còn phải chỉ cho Dân Được Tuyển Chọn nhưng cho toàn thể nhân loại. Lời tiên tri của ngôn sứ Ezekiel, “các ngươi sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Ez 36:28), đạt được chiều kích mới và quyết định (nghĩa) là chiều kích hoàn vũ. Giao ước mới này thể hiện trọn vẹn chiều kích nội tâm, Chúa Thánh Linh đổ đầy mọi tâm hồn và ban cho mọi người sức mạnh cần thiết để khắc phục mọi yếu đuối và tội lỗi. Giao ước mới đạt được chiều kích vĩnh cửu (tc. Dt 13:20). Trong tính cách viên mãn của đặc ân này, Giáo Hội khởi đầu là Dân Thiên Chúa theo giao ước mới và vĩnh cửu. Giao ước này hoàn thành lời Chúa Kitô hứa liên quan với Chúa Thánh Linh, “Đấng Cố Vấn khác nữa (Parákletos)” được phái đến “ở với anh em mãi mãi” (Jn 14:16).
Buổi gặp chung ngày 2 tháng Tám, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Lễ Hiện Xuống và Luật Chúa Thánh Linh
Chúa Thánh Linh ngự đến trong ngày Lễ Hiện Xuống là việc hoàn tất vĩnh viễn Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Thánh Linh ngự đến hoàn tất trọn vẹn những lời loan báo thuộc Cựu Ước, đặc biệt là những lời ngôn sứ Jeremia và Ezekiel, liên quan đến giao ước mới mà về sau Thiên Chúa sẽ thiết lập với nhân loại trong Chúa Kitô và “việc tuôn đổ” Thánh Linh Thiên Chúa “trên nhân loại” (Joel 3:1). Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là tái ghi khắc thánh luật Thiên Chúa trong sâu thẳm con người, hoặc nơi “trái tim con người” như ngôn sứ đã tiên báo (tc. Jer 31:33). Như thế chúng ta có thánh luật mới là luật Thánh Linh, mà ngày nay chúng ta phải cẩn trọng học hỏi để hiểu biết đầy đủ hơn về mầu nhiệm Đấng Phù Trợ.
Chúng ta đã từng nhấn mạnh sự kiện là giao ước cũ giữa Thiên Chúa và dân Israel thiết lập trong cuộc hiển lộ tại Núi Sinai và căn cứ trên thánh luật. Tâm cốt của lần thần hiển đó chính là Thập Giới. Chúa cổ võ dân Ngài tuân thủ các giới răn: “Nếu các ngươi vâng nghe lời Ta và giữ giao ước của Ta, các ngươi sẽ là dân riêng của Ta giữa muôn dân nước; vì toàn thể trái đất là của Ta, và các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và một dân thánh của Ta” (Xh 9:5-6).
Vì giao ước cũ đã không được trung thành tuân thủ, Thiên Chúa loan báo qua các ngôn sứ rằng: Ngài sẽ thiết lập một giao ước mới: “Chúa phán rằng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó, Ta sẽ đặt thánh luật của Ta trong chúng và Ta sẽ viết luật ấy nơi trái tim chúng.” Những lời trích dẫn trên đây của ngôn sứ Jeremia nói trong bài giáo lý trước nối tiếp với lời hứa: “và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Jer 31:33).
Luật yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân
Vì thế giao ước mới (tương lai) mà các ngôn sứ loan báo phải được thiết lập trên sự thay đổi tận gốc tương quan của nhân loại đối với luật Thiên Chúa. Thay vì là luật bên ngoài, viết trên phiến đá, nhưng nhờ công việc của Chúa Thánh Linh, luật Thiên Chúa viết nơi trái tim con người và trở nên cương lãnh chỉ đạo bề trong, được thiết lập “trong sâu thẳm con người.”
Theo Phúc Âm, luật này tóm gọn trong giới răn yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Khi Chúa Giêsu nói “tất cả mọi lề luật và các sách tiên tri đều tùy thuộc hai giới răn này” (Mt 22:40), Chúa nói rõ hai giới răn này đã có sẵn trong Cựu Ước (Tl 6:5; Lev 19:18). Yêu mến Thiên Chúa là “giới răn trọng đại nhất”; yêu tha nhân là “giới răn thứ nhì cũng quan trọng như giới răn thứ nhất” (Mt 22:37-39). Đây cũng là điều kiện để thi hành giới răn thứ nhất: “vì người yêu thương tha nhân đã chu toàn lề luật (thánh luật)” (Rom 13:8).
Giới răn yêu mến Thiên Chúa và tha nhân là tâm cốt lề luật mới Chúa Kitô thiết lập bằng lời nói và gương sáng (kể cả việc hy sinh “mạng sống vì bạn hữu”) (tc. Jn 15:13). Thánh luật này được Chúa Thánh Linh viết nơi trái tim chúng ta và trở nên “luật của Thánh Linh.”
Như Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn tại Corinth: “Anh chị em hãy tỏ ra anh chị em là bức thư của Chúa Kitô được trao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết trên bia đá nhưng trong trái tim con người” (2 Cor 3:3). Vì thế luật Thánh Linh là luật trong lòng con người. Hơn nữa, chính Chúa Thánh Linh là thầy dạy và hướng dẫn trong tâm khảm con người.
Một lề luật được hiểu như thế sẽ xóa nhòa mọi hình thức cưỡng chế bên ngoài mà con người phải chịu đựng vì những hành động của họ. Luật Phúc Âm, tích chứa trong lời nói và minh xác bởi cuộc sống và tử nạn của Chúa Kitô, tích chứa trong mạc khải thần linh bao gồm chân lý sung mãn về lợi ích của hành động con người. Đồng thời luật Phúc Âm chữa lành và làm cho hoàn hảo sự tự do trong tâm hồn con người, như lời Thánh Phaolô: “Luật sự sống Thần Khí trong Chúa Giêsu Kitô đã giải phóng tôi khỏi luật lệ tội lỗi và sự chết” (Rom 8:2). Theo Thánh Phaolô, Chúa Thánh Linh là Đấng ban sự sống, vì qua Ngài tâm linh con người chia sẻ sự sống Thiên Chúa, đồng thời Ngài trở nên nguyên lý và nguồn mạch hoạt động của con người: “để tinh thần cưỡng chế của luật công chính được thực thi hoàn toàn trong chúng ta là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí” (Rom 8:4).
Trong giáo huấn trên đây Thánh Phaolô có thể đã viện dẫn chính lời Chúa Giêsu minh xác trong bài giảng trên núi: “Anh em đừng nghĩ Thầy tới để xóa bỏ lề luật nhưng để hoàn thành các luật đó” (Mt 5:17). Việc Chúa Giêsu Kitô hoàn thành lề luật Thiên Chúa bằng lời nói và gương sáng tạo thành khuôn mẫu cho việc bước đi theo Thánh Linh. Theo ý nghĩa này, luật được Chúa Thánh Linh viết nơi trái tim nhân loại, tồn tại và hoạt động trong những người tin vào Chúa Kitô và chia sẻ thần linh của Ngài.
Chúng ta thấy trong Công Vụ Tông Đồ, toàn thể cuộc sống Giáo Hội tiên khởi là một phô diễn chân lý theo Thánh Phaolô mô tả trong Thư viết cho giáo đoàn Roma: “Tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Linh Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rom 5:5). Bất chấp những hạn chế và yếu đuối của các thành viên Giáo Hội sơ khai, cộng đồng Jerusalem chia sẻ đời sống mới “mà Thánh Linh ban cho”; cộng đoàn đã sống tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta cũng nhận được sự sống này vì là hồng ân từ Chúa Thánh Linh, Đấng đổ đầy lòng chúng ta tình yêu – yêu mến Thiên Chúa và tha nhân – nội dung tâm cốt của giới răn quan trọng nhất. Như thế luật mới, được tình yêu in vào trái tim con người là đặc ân của Chúa Thánh Linh, đồng thời là luật của Thánh Linh trong lòng mọi người. Luật Thánh Linh đem lại tự do, như lời Thánh Phaolô: “Luật của thánh linh sự sống trong Chúa Kitô Giêsu đã giải phóng tôi khỏi luật lệ tội lỗi và sự chết” (Rom 8:2).
Khai mở nền luân lý mới
Vì lý do trên, theo mức độ tình yêu Thiên Chúa “tuôn đổ vào lòng chúng ta” (tc. Rom 5:5), Lễ Hiện Xuống ghi dấu lúc khai mở nền luân lý mới của nhân loại dựa trên luật Thánh Linh. Nền luân lý này hơn hẳn việc chỉ tuân thủ lề luật được ban qua lý trí hoặc bằng chính mạc khải. Luật này phát xuất từ Chúa Thánh Linh và chỉ có thể sinh động trong thương yêu là do Thiên Chúa đem lại. Lề luật yêu thương ấy trở nên một thực tại trong đời sống nhờ Chúa Thánh Linh tuôn đổ vào lòng chúng ta.
Thánh Phaolô là người lớn tiếng nhất tuyên xưng nền luân lý vĩ đại, phát nguồn từ luật thánh linh này. Ngài đã từng là một Pharisiêu nhiệt thành, một chuyên viên, một người giữ cặn kẽ và một người quá khích bênh vực từng nét luật cũ, và chính ngài về sau trở thành tông đồ của Chúa Kitô, đã viết về mình như sau: “Thiên Chúa ... đã làm cho chúng ta xứng đáng phục vụ giao ước mới, không phải theo luật thành văn mà (luật) trong Thánh Linh: vì luật thành văn thì chết, còn luật Thánh Linh thì (ban sự) sống” (2 Cor 3:6).
Buổi gặp chung ngày 9 tháng Tám, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Lễ Hiện Xuống Khai Sinh Dân Thiên Chúa, một Dân Thánh
Vào ngày Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem, các tông đồ cùng với cộng đoàn tiên khởi các môn đệ của Chúa Kitô tụ họp trong căn phòng trên lầu với Mẹ Maria của Chúa đã nhận được Chúa Thánh Linh. Như vậy lời Chúa Giêsu hứa với các ngài khi rời khỏi trần thế về với Chúa Cha đã hoàn tất đối với các ngài. Vào ngày đó, Giáo Hội khởi nguồn từ cuộc tử nạn của Chúa Cứu Thế được giới thiệu với thế giới. Cha sẽ bàn về đề tài này trong bài giáo lý kế tiếp.
Bây giờ cha muốn trình bày việc Chúa Thánh Linh ngự xuống là việc chu toàn giao ước mới trong Máu Chúa Kitô, khai sinh Dân mới của Thiên Chúa. Đây là cộng đồng những người “đã được thánh hiến trong Chúa Giêsu Kitô” (1 Cor 1:2). Khởi đầu từ những người này, Chúa Kitô đã thiết lập “một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa Cha của Ngài” (Kh 1:6; tc. 5:10; 1 Pet 2:9). Toàn thể sự việc này xảy ra nhờ Chúa Thánh Linh.
Để hiểu thấu được đầy đủ ý nghĩa quan trọng của chân lý trên đây, như Thánh Tông Đồ Phêrô, Phaolô và Sách Khải Huyền đã loan báo, chúng ta cần nhắc lại một chút về việc thiết lập giao ước cũ giữa Thiên Chúa với dân tộc Israel. Vị đại lãnh tụ Moses đã trình bày giao ước cũ sau khi giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập. Các văn bản biểu thị rõ ràng rằng giao ước cũ đó đã không bị hạ xuống hàng như giao kèo thiết lập trên nhiệm vụ song phương. Thiên Chúa đã chọn dân Israel làm dân riêng Ngài để dân tộc đó trở nên của riêng Ngài, bởi vì chính Ngài là Thiên Chúa của họ.
Chúng ta hãy đọc trong Sách Xuất Hành: “Vì thế, bây giờ nếu các ngươi tuân giữ lời Ta và giữ giao ước của Ta, các ngươi sẽ là của riêng Ta giữa mọi dân tộc; vì toàn thể trái đất là của Ta, và đối với Ta các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và một dân thánh” (Xh 19:5-6). Sách Đệ Nhị Luật nhắc lại và xác nhận điều Thiên Chúa loan báo trong Sách Xuất Hành. “Vì các ngươi (Israel) là một dân thánh đối với Chúa Thiên Chúa các ngươi; Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã chọn các ngươi làm dân tộc của riêng (sequllah) Ngài, giữa muôn dân tộc sống trên mặt đất” (Đnl 7:6; tc. 26:18). (Nhân thể, chúng ta có thể ghi chú: từ ngữ sequllah có nghĩa là “kho tàng riêng của vua.”)
Sự lựa chọn của Thiên Chúa phát xuất từ tình yêu hoàn toàn và tuyệt đối của Ngài, một tình yêu hoàn toàn vô điều kiện. Chúng ta đọc: “Không phải vì các ngươi đông số hơn bất cứ dân tộc nào khác mà Chúa yêu thương và chọn các ngươi, vì các ngươi là số ít nhất trong mọi dân tộc; nhưng chính vì Thiên Chúa yêu thương các ngươi và giữ lời Ngài đã hứa cho tổ tiên các ngươi, Chúa đã dùng tay quyền năng của Ngài cứu thoát các ngươi và chuộc các ngươi khỏi ách nô lệ” (Đnl 7:7-8). Sách Xuất Hành cũng mô tả điều đó một cách linh hoạt: “Các ngươi đã thấy điều Ta làm cho dân Ai cập, và Ta đã nâng đỡ các ngươi trên đôi cánh đại bàng và đưa các ngươi đến với Ta” (Xh 19:4).
Thiên Chúa hành động vì yêu thương vô điều kiện. Tình yêu này ràng buộc dân tộc Israel với Thiên Chúa cách đặc biệt và khác thường. Qua đó dân tộc Israel trở nên sở hữu của Thiên Chúa. Dẫu vậy tình yêu đó đòi sự đền đáp, và vì thế đòi hỏi một trách nhiệm tình yêu về phía dân tộc Israel: “Các người phải hết lòng yêu mến Chúa Thiên Chúa của các ngươi” (Đnl 6:5).
Như thế trong giao ước một dân tộc mới, Dân Thiên Chúa, đã chào đời. Là “sản nghiệp” của Thiên Chúa có nghĩa là được thánh hiến cho Ngài, là dân thánh. Đó là điều Thiên Chúa cho toàn thể cộng đồng Israel biết qua ông Moses: “Các ngươi sẽ phải thánh thiện, vì Ta là Thiên Chúa của các ngươi là Đấng Thánh” (Lev 19:2). Chính vì sự lựa chọn đó mà Thiên Chúa đã tự hiến đức tính quan trọng nhất của Ngài là sự thánh thiện cho dân Ngài, và Ngài đòi hỏi điều đó từ dân Israel như là phẩm chất đời sống của họ.
Là một dân tộc được thánh hiến cho Thiên Chúa, dân Israel được kêu gọi trở thành một dân tộc tư tế: “Các ngươi sẽ được gọi là tư tế của Chúa, người ta sẽ nói về các ngươi là những người phụng sự Thiên Chúa của chúng ta” (Is 61:6).
Giao ước hoàn toàn mới mẻ và vĩnh cửu chỉ được thể hiện “trong máu Chúa Kitô” (tc. 1 Cor 11:25). Nhờ hy lễ thập giá, “Vị Cố Vấn mới, Parákletos” (tc. Jn 14:16) là Chúa Thánh Linh được ban cho những người “được thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô, những người được gọi là các thánh” (1 Cor 1:2). Thánh Phaolô viết trong Thư gửi các Kitô hữu tại Roma: “Gửi tới tất cả mọi người được Thiên Chúa yêu thương tại Roma, những người được gọi làm dân thánh” (Rom 1:7). Ngài cũng nói tương tự với các tín hữu tại Corinth: Gửi Hội Thánh của Thiên Chúa tại Corinth, với tất các thánh ở khắp miền Achaia” (2 Cor 1:1); với giáo đoàn tại Philippi, Ngài nói: “Gửi tất cả các thánh trong Chúa Giêsu Kitô ở Philippi” (Phil 1:1); và với giáo đoàn ở Colossae: “Gửi các thánh và anh em tín hữu trong Chúa Kitô tại Colossae” (Col 1:2); và với các tín hữu tại Ephesus: “Gửi các thánh tại Ephesus” (Eph 1:1).
Chúng ta thấy cùng cách diễn tả đó trong Công Vụ Tông Đồ: Ông Phêrô ... đến với các thánh sinh sống tại Lydda” (Cv 9:32; tc.9:41, và 9:13) “đến với các thánh tại Jerusalem”.
Tất cả những trường hợp này đều nói đến các Kitô hữu, tức là những anh chị em đã nhận được Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Đấng trực tiếp tạo dựng sự thánh thiện trên đó toàn thể đời sống Kitô hữu được xây dựng, do việc tham dự vào sự thánh thiện của chính Thiên Chúa: “Anh chị em được thánh hóa trong Thánh Linh Thiên Chúa” (1 Cor 6:11; tc. 2 Thess 2:13; 1 Pet 1:2).
Cũng phải nói như thế về sự thánh hiến mà nhờ Chúa Thánh Linh làm cho những người đã lãnh nhận Phép Rửa trở nên “một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa Cha của Ngài” (tc. Kh 1:6; 5:10; 20:6). Thánh Phêrô trình bày rõ ràng chân lý này trong Thư I của ngài: “Hãy để Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô, dùng anh chị em như những viên đá sống động mà xây dựng ngôi đền thờ thiêng liêng, tạo thành hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” (1 Pet 2:5). “Anh chị em là dòng giống được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, một dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để anh chị em có thể tuyên xưng những kỳ công của Ngài là Đấng đã gọi anh chị em ra khỏi bóng tối mà vào nơi ánh sáng rực rỡ” (1 Pet 2:9). Chúng ta biết “điều đó được mạc khải cho họ” nhờ tiếng nói Phúc Âm và “nhờ Chúa Thánh Linh được phái từ trời xuống” (1 Pet 1:12).
Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II mô tả chân lý trên bằng những lời sau đây: “Chúa Kitô, vị thượng tế được tuyển chọn giữa muôn người” (tc. Heb 5:1-5), đã làm cho dân tộc mới đó trở nên ‘một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa Cha của Ngài’ (Kh 1:6; tc. 5:9-10). Những người đã lãnh Phép Rửa, được Chúa Thánh Linh đổi mới và xức dầu thánh hiến để là đền thờ thiêng liêng và là một hàng tư tế thánh, như thế họ có thể hiến dâng lễ phẩm thiêng liêng và loan báo quyền năng của Đấng đã kêu gọi họ ra khỏi bóng tối mà đi vào ánh sáng rực rỡ (tc. 1 Pet 2:4-10)” (LG số.10).
Ở đây chúng ta đi tới chính cốt tủy của Giáo Hội là Dân Thiên Chúa và là cộng đồng các thánh, chúng ta sẽ trở lại đề tài này trong bài giáo lý tới. Tuy nhiên, các văn bản trích dẫn đã làm sáng tỏ việc xức dầu, tức là quyền năng và hành động của Chúa Thánh Linh, diễn tả theo điều kiện thánh thiện và thánh hiến của những con người mới này.
Buổi gặp chung ngày 16 tháng Tám, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy. Đây là sách về giảng dạy giá trị và đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần để học hỏi và tìm hiểu.
Lễ Hiện Xuống là Ngày Khai Sinh Giáo Hội
Vào Ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh đã giới thiệu Giáo Hội với thế giới là Giáo Hội đã khởi nguyên từ khổ hình cứu chuộc của Chúa Kitô. Đề tài này đã được giới thiệu trong bài giáo lý trước về Chúa Thánh Linh ngự đến khai sinh Dân Tộc mới của Thiên Chúa. Đối chiếu với lời giao ước cũ giữa Thiên Chúa và dân Israel, dân “được tuyển chọn” của Ngài, chúng ta thấy cách thức mà Dân Tộc của giao ước mới sinh ra “trong Máu Chúa Kitô” (tc. 1 Cor 11:25) mà Chúa Thánh Linh đã kêu gọi hướng tới sự thánh thiện. Dân mới được thánh hiến nhờ “việc xức dầu của Chúa Thánh Linh” trong nhiệm tích Thanh Tẩy. Dân mới này là “hàng tư tế vương giả” được kêu gọi dâng hiến “lễ phẩm thiêng liêng” (tc. 1 Pet 2:9). Do việc thiết lập dân giao ước mới theo thể thức này, Chúa Thánh Linh minh chứng Giáo Hội phát nguồn từ trái tim bị đâm thủng trên thánh giá của Chúa Cứu Thế.
Trong tiến trình giáo lý Kitô học, chúng ta đã trình bày Chúa Giêsu Kitô đặt nền móng xây dựng Giáo Hội của Ngài do việc “trao cho các tông đồ vương quốc nhận được từ Chúa Cha” (tc. Lc 22:2; Mc 4:11). Chúa không giới hạn trong việc lôi kéo người nghe và môn đệ bằng lời Phúc Âm và các phép lạ của Ngài. Ngài tuyên bố rõ ràng Ngài muốn “xây Giáo Hội trên các tông đồ, và đặc biệt là trên thánh Phêrô” (tc. Mt 16:18). Khi tới thời gian chịu khổ hình, vào tối ngày hôm trước, Ngài cầu xin cho họ được “thánh hiến trong chân lý” (tc. Jn 17:17); Ngài cầu xin cho họ hiệp nhất: “Xin cho chúng (họ) nên một; như Cha, Chúa Cha, ở trong Con, và Con ở trong Cha ... ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã phái Con đến” (tc. Jn 17:21-23). Sau cùng, Ngài hiến mạng sống mình “làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45), “để quy tụ thành một hết thảy con cái Thiên Chúa rải rác khắp nơi” (Jn 11:52).
Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II nhấn mạnh mối liên kết giữa Mầu Nhiệm Vượt Qua và Lễ Hiện Xuống: “Khi Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết trên thập giá vì loài người, đã phục sinh và được phong làm Chúa, làm Đấng Kitô và làm Tư Tế đời đời, và Ngài đổ tràn đầy Thánh Linh Chúa Cha đã hứa trên các môn đệ của Ngài” (LG số 5). Việc này xảy ra theo điều Chúa Giêsu đã loan báo trong Tiệc Ly trước khi chịu khổ hình, và Ngài nhắc lại trước khi rời khỏi trần gian để về với Chúa Cha: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh đến trên anh em; và anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Jerusalem ... và tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Sự kiện này tột đỉnh và đầy ý nghĩa quyết định cho việc hiện hữu của Giáo Hội. Chúa Kitô đã loan báo và thiết lập Giáo Hội, và sau cùng “đã sinh ra” Giáo Hội trên thánh giá qua cái chết cứu độ của Ngài. Tuy nhiên, việc hiện hữu của Giáo Hội trở nên rõ ràng vào ngày Lễ Hiện Xuống khi Chúa Thánh Linh ngự đến và các tông đồ bắt đầu “làm chứng” Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Chúng ta có thể nói sự kiện này đã khai sinh Giáo Hội, như chúng ta đề cập đến việc chào đời của một người khi ra khỏi lòng mẹ đã “được giới thiệu” với thế gian.
Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã viết: “Thời đại của Giáo Hội bắt đầu bằng “việc Chúa Thánh Linh ngự xuống” trên các tông đồ tụ họp trong căn phòng trên lầu tại Jerusalem, cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Kitô. Thời đại của Giáo Hội bắt đầu vào thời điểm khi những lời hứa và tiên báo đề cập hết sức rõ ràng về Đấng Phù Trợ, Thánh Linh chân lý, bắt đầu được hoàn thành cách trọn vẹn và rõ ràng trên các tông đồ, như thế xác định lúc Giáo Hội chào đời. ... Chúa Thánh Linh là Đấng vô hình, nhưng một cách nào đó (người ta) có thể “nhận thức được”. Chúa Thánh Linh đã hướng dẫn, an ủi các tông đồ và môn đệ, những người cảm thấy thấm thía bị bỏ mồ côi sau khi Chúa Giêsu đi khỏi. Nhờ Chúa Thánh Linh ngự xuống, các ngài cảm thấy có khả năng chu toàn sứ mệnh được ký thác. Các ngài cảm thấy đầy đủ sức mạnh. Rõ ràng là Chúa Thánh Linh hoạt động trong các ngài, và hiển nhiên là (hoạt động) trong Giáo Hội và qua những người nối tiếp các ngài” ( số 25).
Buổi chào đời của Giáo Hội tương tự “việc tạo dựng mới” (tc. Eph 2:15). Chúng ta có thể so sánh với việc tạo dựng thứ nhất, khi “Chúa tạo dựng con người từ bụi đất và hà hơi (thổi sinh khí) vào mũi con người” (St 2:7). Con người mang ơn thần linh về sinh khí làm cho họ trở thành con người đích thực. Chúng ta cần nhắc lại hơi thở sáng tạo này theo Phúc Âm Thánh Gioan: khi Chúa Kitô phục sinh, hiện ra với các tông đồ tụ họp tại căn phòng trên lầu, “Ngài hà hơi vào các ông, và nói (với các ông): ‘Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh. Anh em tha tội cho người nào, thì người ấy được tha; anh em cầm buộc tội người nào, thì những tội người ấy bị cầm giữ” (Jn 20:22-23). Sự kiện này xảy ra vào buổi chiều Lễ Vượt Qua, có thể coi là Lễ Hiện Xuống trước, dầu rằng âm thầm. Kế đến ngày Lễ Hiện Xuống là việc thần hiển công khai của Chúa Thánh Linh. Chúa Giêsu Kitô, “được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, đã được Chúa Cha ban đặc ân Chúa Thánh Linh để Ngài trút đổ xuống (cho các tông đồ và mọi người)” (Cv 2:33). Sở dĩ có “tạo vật mới” (tc. Tv 104:30) là nhờ hành động của Chúa Thánh Linh.
Không kể tính cách tương tự với Sáng Thế Ký, chúng ta có thể tìm thấy trong một đoạn từ Sách Ezekiel như sau: “Vì thế Chúa là Thiên Chúa phán: Từ bốn phương trời, thần khí hãy tới thổi sinh khí vào những người đã chết này, để chúng được sống” (Ez 37:9). “Này, Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi, và đưa các ngươi lên khỏi mồ. Hỡi dân Ta, và Ta sẽ đem các ngươi trở về đất Israel” (Ez 37:12). “Và Ta sẽ đặt Thánh Khí của Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống ... các ngươi sẽ nhận biết rằng chính Ta là Chúa, đã phán” (Ez 37:14). “... và sinh khí nhập vào những người đã chết, và chúng được hồi sinh, và chỗi dậy” (Ez 37:10).
Thị kiến lạ lùng và xúc động liên quan đến việc phục hồi dân Israel sau ngày bị lưu đày đã được Thiên Chúa loan báo sau thời gian dài đau khổ (tc. Ez 37:11-14). Các ngôn sứ Hosea (tc. 6:2; 13; 14) và Isaiah (26:19) cũng loan báo lời tiên tri về việc phục hồi và cuộc sống mới đó. Tuy nhiên hình ảnh tượng trưng các ngôn sứ đã sử dụng đem lại cho dân Israel ước vọng việc phục hưng cá nhân mà có lẽ ông Job đã thấy trước (tc. Job 19:25). Trong những văn bản khác cho thấy: ý niệm này phát triển dần dần trong Cựu Ước (tc. Dan 12:2; 2 Macc 7:9-14,23-36; 12:43-46) và Tân Ước (Mt 22:29-32; 1 Cor 15). Tuy nhiên, tư tưởng đó đã chuẩn bị cho quan niệm về cuộc sống mới sẽ được mạc khải trong việc phục sinh của Chúa Kitô và sẽ đến với các tín hữu, nhờ việc làm của Chúa Thánh Linh. Chúng ta những người tin vào Chúa Kitô cũng có thể đọc một điều tương tự về vượt qua trong sách Ezekiel.
Đây là khía cạnh cuối cùng của mầu nhiệm khai sinh Giáo Hội vào Lễ Hiện Xuống nhờ việc làm của Chúa Thánh Linh. Tinh thần đó đã thể hiện lời cầu nguyện có tính cách tư tế của Chúa Kitô tại căn phòng trên lầu: “xin cho chúng nên một; như Cha, Chúa Cha, ở trong Con, và Con ở trong Cha, để chúng cũng ở trong Chúng Ta, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã phái Con đến” (Jn 17:21). Khi ngự xuống trên các tông đồ tụ họp cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh biến đổi và kết hợp họ, “đổ xuống” cho họ “tràn đầy” sự sống thần linh. Họ trở nên “một,” một cộng đồng tông đồ, sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô đã chịu đóng đinh và phục sinh. Đây là việc tạo dựng mới tràn ra từ thánh giá và được Chúa Thánh Linh ban sự sống, Chúa Thánh Linh đã ban cho Giáo Hội lịch sử của mình bắt đầu từ Lễ Hiện Xuống.
Buổi gặp chung ngày 30 tháng Tám, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh
Khai nguyên từ hy lễ thánh giá, “Giáo Hội” bắt đầu “thời đại” và cuộc lữ hành trần thế của mình khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ trong căn phòng trên lầu. “Bắt đầu thời đại Giáo Hội” cộng tác với Chúa Thánh Linh trong sứ mệnh làm cho ơn cứu độ của Chúa Kitô sinh hoa trái giữa nhân loại từ thế hệ này đến thế hệ kia. Trong sứ mệnh cứu độ và cộng tác với Chúa Thánh Linh, Giáo Hội thi hành tính nhiệm tích của mình theo lời Công Đồng Vatican II dạy: “Vì Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như nhiệm tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của việc kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại” (LG 1). Nhiệm tích tính này có ý nghĩa quan trọng sâu xa liên hệ với mầu nhiệm Lễ Hiện Xuống, đem lại cho Giáo Hội sức mạnh và đặc sủng để hoạt động cách hữu hình giữa toàn thể gia đình nhân loại.
Trong bài giáo lý hôm nay, chúng ta muốn xem xét mối liên hệ giữa Lễ Hiện Xuống và Phép Rửa. Chúng ta biết việc Chúa Thánh Linh ngự xuống cùng với việc Chúa Kitô hiện diện đã được loan báo tại Sông Jordan. Ông Gioan Tẩy Giả là mắt xích nối kết hai “việc” này, và dĩ nhiên cho thấy sự liên kết mật thiết của hai sự việc khi nói về Phép Rửa: “Ngài sẽ rửa anh em bằng Chúa Thánh Linh” (Mc 1:8). “Ngài sẽ rửa anh em bằng Chúa Thánh Linh và lửa” (Mt 3:14). Chúng ta thấy mối liên kết giữa Chúa Thánh Linh và lửa trong khung cảnh Phúc Âm, có sẵn trong Cựu Ước: lửa là phương tiện Thiên Chúa chọn để thanh tẩy lương tâm (tc. Is 1:25; 6:5; Zec 13:9; Mal 3:2-3; Sir 2:5 vv).
Nghi thức phép rửa cử hành trong Do Thái giáo và trong những tôn giáo cổ xưa khác là dìm xuống nước, tiêu biểu việc thanh tẩy. Ông Gioan Tẩy Giả đã theo nghi thức phép rửa bằng nước này, nhưng nhấn mạnh thêm về giá trị không phải chỉ ở nghi thức mà cả bằng ngôn từ tiêu biểu cho “sự ăn năn thống hối” (tc. Mt 3:2,6,8,11; Lc 3:10-14). Ngoài ra, việc ăn năn thống hối là hình thức khởi đầu để những người lãnh phép rửa trở nên môn đệ và quy tụ chung quanh ông Gioan Tẩy Giả thành một cộng đồng đón chờ Đấng Thiên Sai vào thời cánh chung (tc. Mt 3:2,11; Jn 1:13-14). Tuy nhiên, phép rửa của ông Gioan chỉ là phép rửa bằng nước, nên không có sức mạnh của Nhiệm Tích Thanh Tẩy.
Sức mạnh thanh tẩy phải là đặc tính của Phép Rửa bằng lửa đã được Đấng Thiên Sai đem tới, mà trong lửa có một yếu tố mạnh hơn nước nhiều. Ông Gioan Tẩy Giả loan báo mục tiêu sửa soạn và biểu tượng của phép rửa ông cử hành cho phù hợp với Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ rửa “bằng Chúa Thánh Linh và lửa” (Mt 3:11; tc. 3:7,10,12; Jn 1:33). Ông nói thêm Đấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy hoàn toàn bằng lửa Thánh Linh cho những người sẵn sàng và được gom lại tựa như “lúa trong kho.” Tuy nhiên Ngài sẽ đốt “lúa lép và trấu ... bằng lửa không hề tắt” (Mt 3:12), tựa như “lửa hỏa ngục” (tc. Mt 18:8-9), hình ảnh bị thiêu đốt trong lửa không hề tắt dành cho những người không để cho mình được thanh tẩy (tc. Is 66:24; Jdt 16:17; Sir 7:17; Zeph 1:18; Tv 21:10, vv).
Một hôm vị Tẩy Giả gặp Chúa Giêsu ở Sông Jordan, ông nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai, đã loan báo Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Jn 1:29), và làm phép rửa cho Ngài theo lời Ngài yêu cầu (tc. Mt 3:14-15). Đồng thời ông Gioan làm chứng về sứ mệnh thiên sai của Chúa Giêsu, và ông xưng mình chỉ là tiền hô của Ngài. Ông Gioan (Tẩy Giả) bổ túc lời chứng này bằng chính lời ông tuyên bố với các môn đệ và những người nghe về cảm nghiệm xảy đến với ông vào dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện đó có lẽ đã nhắc ông nhớ lời tường thuật trong Sáng Thế Ký về lúc chấm dứt đại hồng thủy (tc. St 8:10) và ông nói: “Tôi đã thấy Thánh Linh như chim bồ câu từ trời ngự xuống, và ở trên Ngài. Chính tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng phái tôi đi làm phép rửa bằng nước nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thánh Linh ngự xuống và ở trên ai, thì đấy chính là Đấng sẽ rửa bằng Thánh Linh ...’” (Jn 1:32-33; tc. Mt 3:16, Mc 1:8, Lc 3:22).
“Làm Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh” có nghĩa là phục hồi con người bằng quyền năng Thánh Linh Thiên Chúa. Và đó là công việc của Đấng Thiên Sai. Như ngôn sứ Isaiah đã tiên báo (11:2; 42:1), Thánh Linh ngự trên Chúa Kitô, trút đầy sức mạnh thần linh vào nhân tính của Ngài, từ khi nhập thể cho đến sau cuộc tử nạn trên thánh giá và hoàn tất trong việc phục sinh (tc. Jn 7:29; 14:26; 16:7,8, 8:20-22; Lc 24:49). Sau khi hoàn tất việc này, Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai có thể ban Phép Rửa mới trong Thánh Linh mà Ngài tràn đầy (tc. Jn 1:33, Cv 1:5). Từ nhân tính vinh hiển của Chúa Kitô, như từ nguồn nước hằng sống, Thánh Linh sẽ chảy tràn khắp thế giới (tc. Jn 7:37-39; 19:34; Rom 5:5). Đây là điều Thánh Gioan Tẩy Giả loan báo khi làm chứng về Chúa Kitô vào dịp Ngài chịu phép rửa. Nước và lửa trong Phép Rửa là biểu tượng mô tả sự huyền nhiệm về sức mạnh tân tạo sinh mà Đấng Thiên Sai và Thánh Linh đã đổ xuống trên thế giới.
Suốt thời gian sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu cũng nói về cuộc khổ hình và tử nạn chính là Phép Rửa mà Ngài phải chịu, vì Ngài phải hoàn toàn dìm ngập trong thống khổ tiêu biểu bằng chén đắng Ngài phải uống (tc. Mc 10:38; 14:36). Nhưng Chúa Giêsu đã liên kết Phép Rửa trong thống khổ của Ngài với biểu tượng khác của lửa. Về Phép Rửa này, chúng ta có thể dễ dàng nhận biết Thánh Linh “tràn đầy” nhân tính của Chúa Cứu Thế và chỉ một ngày sau cơn bão lửa trên thập giá, Ngài sẽ cho chảy tràn khắp thế giới. Thánh Linh sẽ tuôn tràn Phép Rửa bằng lửa mà Chúa Giêsu đã nóng lòng ước mong nhận lãnh đến độ Ngài hết sức khắc khoải cho tới khi Phép Rửa bằng lửa đó hoàn tất trong Ngài (tc. Lc 12:50).
Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã viết: “Nhiều lần Cựu Ước nói về lửa từ trời đốt cháy lễ vật toàn thiêu người ta dâng tiến. Một cách tương tự, chúng ta có thể nói Chúa Thánh Linh là lửa từ trời hoạt động trong thẳm sâu của Mầu Nhiệm Thánh Giá. Theo một ý nghĩa nào đó, Chúa Thánh Linh là Tình Yêu và Ân Sủng từ trời xuống xuyên thấu chính tâm cốt hy lễ hiến dâng trên thánh giá. Theo truyền thống Phúc Âm, chúng ta có thể nói: Chúa Thánh Linh làm tiêu tán hy lễ này bằng lửa yêu mến liên kết Chúa Con với Chúa Cha trong hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu đã trân trọng nhận lãnh Chúa Thánh Linh để sau đó, chỉ một mình Ngài với Chúa Cha, có thể ban Chúa Thánh Linh cho các tông đồ, cho Giáo Hội, cho nhân loại. Chỉ một mình Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha phái Chúa Thánh Linh đi, và cũng chỉ một mình Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trong căn phòng trên lầu, hà hơi (thổi sinh khí) vào các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh, nếu anh em tha tội người nào, thì tội lỗi người ấy được tha ’ (tc. Jn 20:23)” (số 41).
Như thế hoàn tất lời ông Gioan Tẩy Giả loan báo về Đấng Thiên Sai tại Sông Jordan: “Ngài sẽ rửa anh em bằng Chúa Thánh Linh và lửa” (Mt 3:11; tc. Lc 3:16). Ở đây chúng ta cũng hiểu ý nghĩa biểu tượng Thiên Chúa cho thấy trong cột lửa dẫn dân Israel qua sa mạc (tc. Xh 13:21-22); lửa “Núi (Sinai) rực cháy tới tận trời xanh” (Đnl 4:11); lửa yêu thương vinh quang rạng ngời dành cho dân Israel (tc. Đnl 4:24). Như thế đã viên mãn sự việc mà chính Chúa Giêsu hứa khi Ngài nói rằng Ngài đến để gieo rắc lửa khắp thế giới (tc. Lc 12:49), và trong Sách Khải Huyền nói (về Ngài rằng) mắt Ngài rực lửa (tc. Kh 1:14; 2:18; 19:12). Rõ ràng là lửa tiêu biểu Chúa Thánh Linh (tc. Cv 2:3). Phép Rửa bằng lửa này xảy ra trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi Chúa Kitô “nhận Phép Rửa mà chính Ngài phải được rửa” (tc. Mc 10:38) trong hy lễ thánh giá, và trong mầu nhiệm Lễ Hiện Xuống, lúc Chúa Kitô phục sinh vinh hiển đổ đầy Thánh Linh của Ngài trên các tông đồ và Giáo Hội.
Theo Thánh Phaolô, do “Phép Rửa bằng lửa” trong hy sinh thánh giá, Chúa Kitô khi phục sinh đã trở nên “Adam sau cùng,” “thần linh ban sự sống” (tc. 1 Cor 15:45). Bởi vậy, Chúa Kitô phục sinh đã loan báo với các tông đồ: “Ông Gioan (Tẩy Giả) làm phép rửa bằng nước nhưng ít ngày nữa anh em sẽ được rửa bằng Chúa Thánh Linh” (Cv 1:5). Do việc làm của “Adam cuối cùng” là Chúa Kitô, “Thánh Linh ban sự sống” (tc. Jn 6:83) được trao truyền cho các tông đồ và Giáo Hội.
Vào Ngày Lễ Hiện Xuống, Phép Rửa trong Thánh Linh và lửa được hiển lộ. Chính Phép Rửa mới và sau cùng này thanh tẩy và thánh hóa suốt cuộc sống mới. Từ Phép Rửa này, Giáo Hội được khai sinh trong thời kỳ thế mạt và tồn tại “tới tận thế” (tc. Mt 28:20); không phải chỉ riêng Giáo Hội ở Jerusalem thời các tông đồ và môn đệ trực tiếp của Chúa, nhưng là cho toàn thể Giáo Hội, theo phổ quát tính của mình, thể hiện qua mọi thời đại và khắp thế giới.
(Những) Lưỡi lửa đi kèm theo sự kiện Lễ Hiện Xuống trong căn phòng trên lầu tại Jerusalem là dấu chỉ lửa Chúa Giêsu Kitô đem đến và thắp lên trong thế giới (tc. Lc 12:43): lửa Chúa Thánh Linh.
Nhờ ánh sáng Lễ Hiện Xuống, chúng ta cũng có thể hiểu rõ hơn tầm quan trọng của Phép Rửa, nhiệm tích đầu tiên của Chúa Thánh Linh. Chính Chúa Giêsu đã đề cập Phép Rửa này khi đàm luận với ông Nicodemus: “Quả thực, quả thực, Tôi nói cho ông biết, trừ phi một người được tái sinh trong nước và Thánh Linh, người đó không thể vào nước Thiên Chúa” (Jn 3:5). Cũng trong cuộc đàm luận này Chúa Giêsu nói đến cuộc tử nạn trên thánh giá (tc. Jn 3:14-15) và vinh quang thiên đàng của Ngài (tc. Jn 3:13). Chính Phép Rửa bằng hy sinh khai mở Phép Rửa bằng nước, nhiệm tích thứ nhất của Giáo Hội, đã nhận được sức mạnh để hữu hiệu hóa buổi khai sinh của mình từ Chúa Thánh Linh và mở “lối” cho nhân loại “vào nước Thiên Chúa.” Hiển nhiên, như Thánh Phaolô viết gởi giáo đoàn Roma, “Anh chị em không biết tất cả chúng ta đã được rửa trong Chúa Kitô là đã được rửa trong cái chết của Ngài sao? Vì được rửa trong cái chết của Ngài, chúng ta được mai táng với Ngài, để cũng như Chúa Kitô đã từ kẻ chết sống lại do quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng hành trình trong đời sống mới” (Rom 6:3-4). Hành trình Phép Rửa này trong đời sống mới khởi đầu vào Ngày Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem.
Nhiều lần trong các thư của Thánh Phaolô, ngài minh họa ý nghĩa quan trọng của Phép Rửa (tc. 1 Cor 6:11, Tit 3:5; 2 Cor 1:22; Eph 1:13). Ngài thấy Phép Rửa là một “ước muốn tái sinh và canh tân trong Chúa Thánh Linh” (Tit 3:5); một dấu hiệu của việc thanh tẩy “nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (1 Cor 6:11; tc. 2 Cor 1:22); là “dấu ấn Chúa Thánh Linh được hứa ban” (tc. Eph 1:13); là “một bảo đảm của Thánh Linh nơi trái tim chúng ta” (tc. 2 Cor 1:22). Vì Chúa Thánh Linh hiện diện nơi người chịu Phép Rửa, thánh Phaolô khuyến cáo các Kitô hữu thời đó và cũng nhắc lại với chúng ta ngày nay: “Anh chị em đừng làm phiền Thánh Linh Thiên Chúa, trong Ngài anh chị em đã được in dấu chờ ngày cứu độ” (Eph 4:30).
Buổi gặp chung ngày 6 tháng Chín, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
Mối Liên Hệ Tự Hữu giữa Phép Thánh Thể và Ơn Chúa Thánh Linh
Lời Chúa Giêsu hứa “ ... không bao lâu nữa anh em sẽ được rửa trong Chúa Thánh Linh” (Cv 1:5) cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Thánh Linh và Phép Rửa. Trong phần suy niệm trước, chúng ta đã thấy việc khởi đầu từ phép rửa để ăn năn thống hối của ông Gioan (Tẩy Giả) ở Sông Jordan khi ông loan báo Chúa Kitô đến, chúng ta được đưa tới gần hơn với Đấng sẽ rửa “bằng Chúa Thánh Linh và lửa.” Chúng ta cũng được đưa đến với Phép Rửa đặc biệt mà chính Chúa Kitô đã phải được rửa (tc. Mc 10:38) là hy lễ Ngài dâng hiến trên thánh giá “qua Thánh Linh hằng hữu” (Dt 9:14). Ngài đã trở nên “Adam cuối cùng Đấng trở nên một thần khí ban sự sống” (tc. 1 Cor 15:45). Chúng ta biết vào ngày phục sinh, Chúa Kitô đã ban cho các tông đồ Thánh Linh, Đấng ban sự sống (tc. Jn 20:22), và về sau cũng vào Lễ Hiện Xuống, các ông được rửa bằng Chúa Thánh Linh (tc. Cv 2:4).
Vì thế có mối liên hệ khách quan giữa hy lễ vượt qua của Chúa Kitô và đặc ân Thánh Linh. Vì Phép Thánh Thể canh tân cách huyền nhiệm hy lễ cứu độ của Chúa Kitô, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy mối liên hệ tự hữu giữa Nhiệm Tích Thánh Thể và đặc ân Chúa Thánh Linh. Khi thiết lập Giáo Hội qua việc Chúa Thánh Linh ngự đến vào ngày Lễ Hiện Xuống, Ngài đã thiết lập Giáo Hội trong mối liên hệ tự hữu với Nhiệm Tích Thánh Thể, và hướng dẫn Giáo Hội đến với Nhiệm Tích Thánh Thể.
Chúa Giêsu nói trong một dụ ngôn: “Nước trời có thể so sánh với một ông vua thiết tiệc cưới cho hoàng tử” (Mt 22:2). Nhiệm Tích Thánh Thể là một tiên liệu huyền nhiệm và còn có nghĩa là “việc nếm trước” tiệc vương gỉa mà Sách Khải Huyền gọi là “tiệc cưới của Con Chiên” (tc. Kh 19:9). Trọng tâm của tiệc cưới đó và Tiệc Thánh Thể đã được báo trước và tiên liệu mà chàng rể là Con Chiên Đấng “gánh tội trần gian,” Chúa Cứu Thế.
Trong Giáo Hội được sinh ra bởi Phép Rửa Ngày Lễ Hiện Xuống, khi mà các tông đồ cùng với các môn đệ và những người theo Chúa Kitô được “rửa bằng Thánh Linh”, thì Phép Thánh Thể là và cho tới tận thế vẫn là Nhiệm Tích Mình và Máu Chúa Kitô.
Hiện hữu trong Nhiệm Tích Thánh Thể là “Máu Chúa Kitô, Đấng mà qua Thánh Linh hằng hữu đã hiến mình cách tinh tuyền lên Thiên Chúa” (Dt 9:14); Máu “đổ ra vì mọi người” (Mc 14:24) “để tha tội” (Mt 26:28), Máu “tẩy sạch lương tâm khỏi việc làm chết người” (tc. Dt 9:14); “Máu giao ước” (Mt 26:28). Khi lập Nhiệm Tích Thánh Thể, chính Chúa Giêsu nói: “Chén này ... là giao ước mới trong Máu Thầy” (Lc 22:20; tc. 1 Cor 11:25) và Ngài nói tiếp với các tông đồ: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ Thầy” (Lc 22:19).
Mỗi khi cử hành Nhiệm Tích Thánh Thể là diễn lại hy lễ Mình và Máu Chúa Kitô đã dâng hiến trên thánh giá lên Thiên Chúa Cha chỉ một lần là đủ để chuộc tội thế gian. Tông Huấn Dominum et Vivificantem nói: “Chúa Thánh Linh hiện diện và chủ động trong hy lễ của Con Người.... Cũng chính Con Người, Chúa Kitô Giêsu, sẵn sàng dâng hiến nhân tính của Ngài trong hy lễ này và làm phát sinh ra tình yêu cứu độ” (số 40).
Nhiệm Tích Thánh Thể là bí tích tình yêu cứu độ gắn liền với sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh. Tới đây chúng ta cần phải nhắc lại phép lạ sau khi làm cho bánh hóa ra nhiều (tc. Jn 6:27), Chúa Giêsu nói tại hội đường Capernaum về sự cần thiết phải được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Ngài. Trong số những người nghe giảng có nhiều người đã cho rằng lời Ngài nói “về ăn mình và uống máu Ngài” (tc. Jn 6:53) “là điều chướng tai” (Jn 6:60). Biết sự khó chịu đó, Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em khó chịu vì điều này sao? Thế thì nếu anh em thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước thì sao?” (Jn 6:61-62). Những lời đó ám thị về việc Chúa Kitô sẽ lên trời, và người ta sẽ chỉ hiểu đầy đủ về Phép Thánh Thể và về Chúa Thánh Linh sau khi Ngài lên trời. Chúa Giêsu nói: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì; những lời Thầy vừa mới nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Jn 6:63).
Những người nghe Chúa Giêsu nói đã hiểu lời Chúa loan báo đầu tiên về Phép Thánh Thể theo nghĩa “vật chất.” Thầy Hằng Sống đã lập tức giải thích lời Ngài sẽ chỉ được minh giải và người ta chỉ hiểu được nhờ “Thánh Linh, Đấng ban sự sống.” Trong Nhiệm Tích Thánh Thể Chúa Kitô ban cho chúng ta Mình và Máu Ngài làm lương thực và nước uống, dưới hình bánh và rượu nho, y như trong bữa vượt qua lúc Tiệc Ly. Nhờ có Chúa Thánh Linh, Đấng ban sự sống, thì thực phẩm và nước uống Nhiệm Tích Thánh Thể mới có thể tạo ra trong chúng ta “sự hiệp thông,” tức là sự kết hiệp cứu độ với Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và vinh hiển.
Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng nối kết với biến cố Lễ Hiện Xuống là từ những ngày đầu sau khi Chúa Thánh Linh ngự xuống, các tông đồ và những người theo các ngài, tòng giáo và chịu Phép Rửa, “siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2:42). Điều đó cho hiểu là chính Chúa Thánh Linh đã hướng dẫn những tín hữu đầu tiên này đến với Phép Thánh Thể. Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã nói: “Nhờ Chúa Thánh Linh hướng dẫn, từ sơ khai Giáo Hội đã diễn tả và minh xác căn tính của mình qua Nhiệm Tích Thánh Thể” (số. 62).
Giáo Hội sơ khai là một cộng đồng xây dựng trên giáo huấn của các tông đồ (Cv 2:42). Cộng đồng này sinh động hóa hoàn toàn nhờ Chúa Thánh Linh, Đấng soi sáng cho các tín hữu hiểu Lời Thiên Chúa và quy tụ họ lại với nhau trong bác ái chung quanh Nhiệm Tích Thánh Thể. Như thế Giáo Hội phát triển thành một cộng đồng tín hữu là những người “tâm đồng ý hiệp” (Cv 4:32).
Cũng trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem chúng ta đọc: “Nhờ Phép Thánh Thể và việc làm của Đấng Bào Chữa-An Ủi (the Paraclete-Counselor), mọi cá nhân và cộng đồng học cách khám phá ra giá trị ý nghĩa linh thiêng của sự sống con người” (số 62). Người ta khám phá ra giá trị đời sống nội tâm, nhận biết hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi trong chính mình. Các sách Tân Ước và đặc biệt là các thư Thánh Phaolô thường cho chúng ta thấy điều này là khởi đầu và kết thúc cuộc đời chúng ta. Điều đó có nghĩa: hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người là nguyên lý mà theo đó con người được tạo dựng và khuôn đúc, và là cùng đích mà con người được hướng dẫn tới bởi thánh ý và chương trình của Chúa Cha, phản ánh trong Chúa-Con-Ngôi-Lời và trong Chúa-Thánh-Linh-Tình-Yêu.
Lời giải thích trên đây tuyệt vời và sâu sắc mà truyền thống giáo phụ đã đưa ra về nguyên lý căn để của đời sống tinh thần và nhân chủng học theo Kitô giáo. Thánh Thomas tóm gọn nguyên tắc này và đúc thành ngôn ngữ thần học (tc. Summa Theol. I, q, 93,a,8). Đây là cách sống theo nguyên tắc Kitô Giáo diễn tả trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus: “Vì lý do này tôi quỳ gối cầu nguyện trước mặt Chúa Cha, Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời và nơi trần thế được gọi tên. Thể theo sự phong phú vinh hiển của Ngài, cho anh chị em được củng cố sức mạnh nhờ Thánh Linh của Ngài nơi con người nội tâm anh chị em, và để nhờ đức tin, Chúa Kitô có thể ngự trong trái tim anh chị em, để anh chị em, được bén rễ và xây dựng trên đức ái, có được khả năng, cùng với các thánh, thấu hiểu kích thước rộng, dài, cao và sâu thẳm, và thấu hiểu tình yêu Chúa Kitô (mà tình yêu này) vượt qua sự hiểu biết, để anh chị em có thể được tràn đầy sự sung mãn của Thiên Chúa” (Eph 3:14-19).
Qua việc làm của Chúa Thánh Linh, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta sự sung mãn thần linh này (tc. Col 2:9f.). Như thế, nhờ tràn đầy sự sống thần linh, người Kitô hữu đi vào và sống trong sự sung mãn của Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội, và qua Giáo Hội, họ sống trong thế giới mới đang dần dần được cấu tạo (tc. Eph 1:23; 4:12-13; Col 2:10). Nhiệm Tích Thánh Thể là trung tâm của Giáo Hội. Trong Nhiệm Tích Thánh Thể, Chúa Kitô hiện diện và hoạt động trong con người và toàn thế giới nhờ Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 13 tháng Chín, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
Lễ Hiện Xuống Đánh Dấu Khởi Đầu Sứ Mệnh Giáo Hội
Trong Hiến Chế Ad Gentes (Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội) của Công Đồng Vatican II, biến cố Lễ Hiện Xuống nối kết chặt chẽ với khởi đầu lịch sử Giáo Hội: “Vào ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên các môn đệ ... Và chính từ Lễ Hiện Xuống khởi đầu ‘mọi hành động của các tông đồ’” (AG 4). Bởi thế, từ giây phút khai sinh của mình, do việc đi vào thế giới trong ngày Lễ Hiện Xuống, Giáo Hội biểu hiện là “nhà truyền giáo,” việc này thể hiên nhờ hành động của Chúa Thánh Linh. Chúng ta cũng có thể nói thêm rằng Giáo Hội luôn như thế: Giáo Hội vẫn ở “trong tình trạng truyền giáo” (in statu missionis). Đặc tính truyền giáo này là bản chất chính của Giáo Hội. Đây là đặc tính tạo thành Giáo Hội Chúa Kitô, vì Chúa Thánh Linh đã làm cho Giáo Hội trở thành truyền giáo từ lúc khai sinh.
Đoạn văn Công Vụ Tông Đồ ghi lại biến cố Lễ Hiện Xuống (Cv 2:1-13) cho thấy sự thực về điều khẳng định này của Công Đồng gắn liền với sản nghiệp chung của Giáo Hội.
Chúng ta biết các tông đồ và môn đệ khác, tụ họp cùng với Đức Maria trong căn phòng trên lầu, đã nghe “một âm thanh tựa như cơn gió mạnh,” và xuất hiện “những lưỡi lửa, tỏa ra trên đầu mọi người” (tc. Cv 2:2-3). Theo truyền thống Israel lửa là biểu hiệu sự hiển lộ đặc biệt của Thiên Chúa, Đấng nói lời chỉ dạy, hướng dẫn và cứu độ dân Ngài. Ký ức về kinh nghiệm kỳ diệu tại Núi Sinai vẫn còn sống động trong tâm hồn người Israel và giúp họ hiểu ý nghĩa việc hiệp thông mới bao gồm trong biểu tượng đó, và cũng như là bằng chứng hiển nhiên trong “Sách Huấn giáo Jerusalem” (Jerusalem Tamud) (tc. Hag 2, 77b, 32; đọc thêm Mildrash Rabbat 5, 9 về Xuất hành 4:27).
Cũng truyền thống Jerusalem Tamud của người Israel đã chuẩn bị các tông đồ hiểu “lưỡi” có nghĩa sứ mệnh rao giảng, làm chứng nhân và giảng dạy mà chính Chúa Giêsu đã trao cho các ngài. “Lửa” không phải chỉ liên quan với luật của Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu đã xác quyết và kiện toàn, mà còn liên quan tới chính Chúa Giêsu, “con người” của Ngài, cuộc đời Ngài, tử nạn và phục sinh, vì chính Ngài là tân Huấn Chỉ (Torah[1]) phải được loan truyền khắp thế giới. Nhờ hành động của Chúa Thánh Linh, những “lưỡi lửa” đã trở thành lời nói nơi miệng các tông đồ: “Các ngài được tràn đầy Chúa Thánh Linh và bắt đầu nói những ngôn ngữ khác, theo như Thánh Linh làm cho các ngài nói được” (Cv 2:4).
Trong lịch sử Cựu Ước đã có những cuộc hiển lộ tương tự mà trong đó thần khí của Chúa được ban cho việc nói tiên tri (tc. Mic 3:8; Is 61:1; Zech 7:12; Neh 9:30). Ngôn sứ Isaiah cho biết một luyến thần (seraphim) bay đến bên ngài, “trong tay cầm cục than đỏ lửa mà thiên thần đã dùng cái kẹp gắp lấy từ bàn thờ.” Thiên thần chạm cục than đỏ lửa đó vào môi ngôn sứ Isaiah để thanh tẩy ông khỏi mọi tội lỗi, trước khi Chúa trao cho ông sứ mệnh nói với dân Ngài (tc. Is 6:6-9 ff.). Các tông đồ biết biểu tượng truyền thống này nên nắm được ý nghĩa sự việc xảy ra với các ngài vào ngày Lễ Hiện Xuống. Thánh Phêrô minh chứng điều này trong bài giảng thuyết đầu tiên, nối kết ơn nói nhiều ngôn ngữ với lời ngôn sứ Joel đã nói về việc tuôn đổ Thánh Linh làm cho các môn đệ có khả năng nói tiên tri (Cv 2:17 ff; Joel 3:1-5).
Qua “lưỡi lửa” (Cv 2:3) mỗi tông đồ nhận được đặc sủng đa dạng của Thánh Linh, như những người tôi tớ trong dụ ngôn tin mừng, tất cả đều đã nhận được một số vốn để sinh lợi (tc. Mt 25:14ff.). “Lưỡi lửa” là biểu hiệu ý thức mà các tông đồ có và luôn nhớ liên quan tới sứ mệnh truyền giáo các ngài được kêu gọi và cống hiến. Ngay khi được “tràn đầy Chúa Thánh Linh, các ngài bắt đầu nói những ngôn ngữ khác lạ, mà Thánh Linh ban cho các ngài nói được.” Thánh Linh ban cho các ngài sức mạnh, khả năng, và thúc đẩy trong lòng, để các ngài thi hành sứ mệnh được trao phó.
Việc này xảy ra trong căn phòng trên lầu, nhưng ngay sau đó sứ mệnh loan báo tin mừng và nói nhiều ngôn ngữ đã vượt ra khỏi nơi các ngài ở. Hai biến cố đặc biệt đã xảy ra và được mô tả trong Công Vụ Tông Đồ. Trước nhất, Sách Công Vụ mô tả ơn ngôn ngữ mà nhờ đó những lời các ngài nói có tính cách đa ngôn ngữ và dùng để hát ca chúc tụng Thiên Chúa (tc. Cv 2:11). Đám đông gồm “những người Israel sùng đạo” dịp này đang ở Jerusalem mừng Lễ Vượt Qua đã nghe tiếng động mạnh (khi Chúa Thánh Linh ngự xuống căn phòng Tiệc Ly) kêu gọi tụ tập lại và ngỡ ngàng trước sự việc này. Họ thuộc “mọi quốc gia dưới gầm trời” (Cv 2:5) “và nói ngôn ngữ dân địa phương họ ở, mặc dầu theo sắc tộc thì họ vẫn là người Israel.” Lúc này đám đông tụ tập chung quanh các tông đồ “bỡ ngỡ lạ lùng, vì mỗi người này đã nghe các tông đồ nói thổ ngữ của họ. Họ ngỡ ngàng và ngạc nhiên, nói, ‘Không phải những người này đang nói tiếng miền Galilee sao? Và làm cách nào mà mỗi người chúng tôi nghe thổ ngữ của mình?’” (Cv 2:6-8).
Ở điểm này Thánh Luca không ngần ngại vạch ra bản đồ thế giới miền Địa Trung Hải mà từ đó những người Israel sùng đạo đã tới Jerusalem. Chẳng khác gì ngài đặt thế giới những người trở lại theo Chúa Kitô đối nghịch với việc phân chia ngôn ngữ từ tháp Babel và các sắc dân như Sách Sáng Thế đã ghi lại (11:1-9). Thánh Luca cũng không quên kể, trong số đó, “những người từ Roma, người Parthian và Medes và Elamites và cư dân ở Mesopotamia, Judea và Cappadocia, Pontius và Tiểu Á, Phrygia và Pamphylia, Aicập và những miền thuộc Libya thuộc Cyrene, và các du khách từ Roma, cả người Israel và người tòng Do Thái giáo, người Cretan và Ả Rập” (Cv 2:11-19). Thánh Sử, qua miệng tất cả những người đó, dường như làm sống lại biến cố đã xảy ra tại Jerusalem và được trao lại theo truyền thống Kitô hữu tiên khởi bằng những lời sau đây: “Chúng tôi nghe (từ các tông đồ, người gốc từ Galilee) nói bằng ngôn ngữ của địa phương chúng tôi về những việc lạ lùng của Thiên Chúa” (Cv 2:11).
Sự kiện ngày Lễ Hiện Xuống hiển nhiên là huyền nhiệm và quan trọng. Chúng ta có thể khám phá được trong đó một dấu chỉ phổ quát của thế giới Kitô Giáo và đặc tính truyền giáo của Giáo Hội. Người viết Sách Thánh cho chúng ta thấy điều này và biết rõ thông điệp Lễ Hiện Xuống được gửi tới cho cả nhân loại thuộc mọi dân tộc. Chính Chúa Thánh Linh can thiệp để bảo đảm mọi người đều hiểu ít nhất điều gì đó bằng ngôn ngữ của mình: “Từng người chúng tôi nghe hiểu bằng tiếng địa phương của mình” (Cv 2:8). Ngày nay chúng ta có thể nói về chuyển dịch ngôn ngữ và các nền văn hóa đã sản sinh ra ngôn ngữ đó. Vì thế người ta có thể nhìn thấy nơi toàn thể sự việc này một hình thức sơ khởi của hội nhập văn hóa, nhờ Chúa Thánh Linh đem lại.
Một sự kiện đặc biệt khác là lòng can đảm mà thánh Phêrô và mười một tông đồ “đã đứng lên” bắt đầu giải thích ý nghĩa thiên sai và thánh linh của sự việc đang xảy ra trước mắt đám đông ngỡ ngàng đó (Cv 2:14ff). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này khi đến lúc. Ở đây chúng ta có thể thực hiện một suy nghiệm cuối cùng về điểm tương phản (một thứ loại suy từ những điểm đối nghịch) giữa điều xảy ra ngày Lễ Hiện Xuống và điều chúng ta đọc trong Sáng Thế Ký về Tháp Babel (tc. St 11:1-9). Trong chuyện lịch sử Tháp Babel chúng ta chứng kiến sự phân tán ngôn ngữ, bởi thế nên người ta không thể hiểu nhau, vì nói những ngôn ngữ khác nhau. Trái lại, vào Lễ Hiện Xuống, dưới hành động của Thánh Linh Đấng là “Thần Linh chân lý” (tc. Jn 15:26), sự phân tán ngôn ngữ không còn cản trở người ta hiểu điều đang được loan báo nhân danh và vì vinh danh Thiên Chúa. Vì thế có sự liên hệ trong việc kết hiệp nhân loại, vượt qua ranh giới ngôn ngữ và văn hóa, và việc hiệp nhất này được Chúa Thánh Linh thể hiện trong thế giới.
Đây là việc thành toàn đầu tiên những lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ trước khi về với Chúa Cha: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh đến trên anh em; và anh em sẽ làm chứng về Thầy ở Jerusalem và khắp miền Judea và Samaria và toàn thế giới” (Cv 1:8).
Công Đồng Vatican II bình luận: “Chúa Thánh Linh thông đạt cho Giáo Hội toàn thể chân lý. Ngài thống nhất Giáo Hội bằng kết hiệp và phục vụ. Ngài xây dựng và dẫn dắt Giáo Hội bằng nhiều ân sủng khác nhau theo phẩm trật và đoàn sủng” (LG 4), Ngài “là linh hồn làm sống động những định chế trong Giáo Hội và đổ vào lòng các tín hữu cùng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Kitô” (LG 4). Từ Chúa Kitô, đến các tông đồ, đến Giáo Hội, đến toàn thế giới: dưới hành động của Chúa Thánh Linh tiến trình hợp nhất toàn cầu trong chân lý và yêu thương có thể và phải trải rộng ra.
Buổi gặp chung ngày 20 tháng Chín, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Tính Phổ Quát và Đa Dạng của Giáo Hội
Trong Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II, chúng ta đọc: “Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện nơi trần gian đã hoàn tất (tc. Jn 17:4), Chúa Thánh Linh được phái đến trong ngày Lễ Hiện Xuống để thánh hóa Giáo Hội mãi mãi, và vì thế, những ai tin sẽ đến được với Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Giáo Hội duy nhất (tc. Eph 2:18). Ngài là Thánh Linh sự sống, là mạch nước phun lên sự sống vĩnh cửu (tc. Jn 4:47; 7:38-39)... Chúa Thánh Linh ngự trong Giáo Hội và trong linh hồn các tín hữu như trong đền thờ (tc. Cor 3:16; 6:19). ... Trong các tín hữu, Ngài cầu nguyện và làm chứng họ là dưỡng tử (tc. Gal 4:6; Rom 8:15-16 và 26)” (LG 4).
Bởi thế, Giáo Hội chào đời vào ngày Lễ Hiện Xuống trùng hợp với việc hiển lộ của Chúa Thánh Linh. Cũng vì lý do này những suy niệm của chúng ta về mầu nhiệm Giáo Hội trong tương quan với Chúa Thánh Linh tập trung chung quanh Lễ Hiện Xuống.
Xuyên qua sự phân tích biến cố này trong phần suy niệm trước chúng ta đã ghi chép và giải thích rằng nhờ công việc của Chúa Thánh Linh, Giáo Hội đã mang truyền giáo tính ngay từ lúc khởi đầu. Bắt đầu từ đó, Giáo Hội vẫn ở trong tình trạng truyền giáo (in statu missionis) suốt mọi thời gian và không gian.
Đặc tính truyền giáo của Giáo Hội gắn liền với phổ quát tính của mình. Đồng thời, phổ quát tính của Giáo Hội một mặt cho thấy mối kết hiệp vững chắc, và mặt khác cũng hiển lộ đa nguyên và đa dạng tính. Điều này không cản trở việc hiệp nhất, mà còn hơn thế, làm cho việc hiệp nhất có đặc tính của sự hiệp thông. Hiến Chế Lumen Gentium nhấn mạnh điều này cách đặc biệt khi nói về “ơn hiệp nhất trong Chúa Thánh Linh” (tc. LG 13), một ân sủng Giáo Hội sở đắc từ ngày khai sinh tại Jerusalem.
Phân tích văn bản Công Vụ Tông Đồ về ngày Lễ Hiện Xuống giúp chúng ta có thể nói Giáo Hội, từ khai sinh, là Giáo Hội hoàn vũ, chứ không phải chỉ là một giáo hội cá biệt tại Jerusalem, mà về sau những cộng đồng giáo hội ở các nơi khác thêm vào. Hẳn nhiên, Giáo Hội khởi đầu tại Jerusalem là một cộng đồng nguyên thủy nhỏ bé gồm các tông đồ và môn đệ đầu tiên; nhưng hoàn cảnh khi Giáo Hội chào đời đã cho thấy ngay từ giây phút đầu tiên viễn ảnh về phổ quát tính (hoàn vũ tính) của Giáo Hội. Một trong những trường hợp nói trên là các tông đồ “nói những ngôn ngữ khác, mà Thánh Linh làm cho các ngài nói được” (tc. Cv 2:4), để những người thuộc các quốc gia khác nhau, hiện diện tại Jerusalem, nghe biết “những việc lạ lùng của Thiên Chúa” (tc. Cv 2:11). Những người đó nghe các tông đồ nói ngôn ngữ địa phương của họ, mặc dầu những người nói “là người Galilee” (tc. Cv 2:7). Chúng ta đã nhắc tới điều này ở bài suy niệm trước.
Hơn nữa, sự kiện quan trọng là các tông đồ đều nguyên quán Galilee. Galilee là một miền hợp chủng, không thuần nhất (tc. 1 Macc 5:14-23), tại đó người Israel tiếp xúc với người các quốc gia khác. Vì thế, Galilee được gọi là “Galilee tạp chủng” (Is 9:1, tc. Mt 4:15; I Macc 5:15). Bởi vậy, theo quan điểm tôn giáo, Galilee bị coi là hạ cấp đối với miền Judea, miền thuần túy Israel.
Bởi thế Giáo Hội chào đời tại Jerusalem, nhưng thông điệp đức tin được loan báo tại đây không bởi cư dân Jerusalem, mà do một nhóm người Galilee. Hơn nữa, lời rao giảng của các ngài không phải chỉ nhắm vào cư dân Jerusalem, mà còn cho người Do Thái và người thuộc mọi sắc dân theo Do Thái giáo.
Kết quả việc các tông đồ làm chứng là các cộng đồng (tức là các giáo hội địa phương) xuất hiện tại nhiều nơi khác nhau chỉ ít lâu sau ngày lễ Hiện Xuống, mà lẽ tự nhiên cộng đồng tại Jerusalem là tiên khởi. Tuy nhiên, Giáo Hội khởi đầu từ việc Chúa Thánh Linh ngự xuống không phải chỉ là một giáo hội Jerusalem. Từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã công giáo hóa với một viễn ảnh phổ quát tính, mà tính cách đó về sau được biểu lộ rõ ràng qua toàn thể các giáo hội cá biệt.
“Công Đồng Jerusalem” xác nhận việc Giáo Hội mở ra hoàn vũ (tc. Cv 15:13-14): “Sau khi các ông (Phaolô và Barnabê) nói xong, ông Giacôbê lên tiếng: ‘Thưa anh em, xin nghe tôi nói: Ông Simon đã cho chúng ta biết: ngay từ đầu Thiên Chúa đã chọn trong các dân ngoại một dân tộc mang danh Ngài” (Cv 15:13-14). Cần phải ghi nhận là tại “Công Đồng Jerusalem” Thánh Phaolô và Barnabê là những chứng nhân việc rao giảng Phúc Âm giữa các dân ngoại. Dịp đó Thánh Giacôbê đã trình bày một cách có thẩm quyền vị thế tiêu biểu của Giáo Hội tại Jerusalem (tc. Gal 2:12) mà ngài lãnh đạo khi thánh Phêrô đi khỏi (tc. Cv 15:13; 21-28). Thánh Phêrô là sứ giả hoàn vũ của Giáo Hội đã hoan hỉ nghênh đón cả “dân được tuyển chọn” và “dân ngoại.”
Từ khởi đầu, Chúa Thánh Linh nhấn mạnh phổ quát tính, công giáo tính của Giáo Hội theo bối cảnh tất cả các cộng đoàn địa phương và cá biệt (nghĩa là các giáo đoàn). Sự kiện này thể hiện những điều quan trọng trong lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng tại Sychar: “Này chị, hãy tin Tôi, đã đến thời điểm người ta thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hoặc tại Jerusalem ... Nhưng giờ đã đến lúc, mà chính là lúc này, người ta thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế” (tc. Jn 4:21,23).
Việc “thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và chân lý” bắt đầu bằng việc Chúa Thánh Linh ngự đến trong ngày Lễ Hiện Xuống. Việc thờ phượng này không thể bị giới hạn chỉ tại một nơi vì được ghi khắc trong thiên hướng của con người để nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa duy nhất Đấng cũng là Thần Khí, và vì thế được rộng mở cho toàn thể nhân loại khắp hoàn vũ.
Phổ quát tính của Kitô Giáo chính thức khởi đầu bằng hành động của Chúa Thánh Linh. Sư kiện này được diễn tả từ lúc ban đầu trong tình trạng đa số và đa dạng những người chia sẻ ánh sáng đầu tiên của Lễ Hiện Xuống, và theo một mức độ nào đó về vấn đề đa ngôn ngữ, văn hóa, dân tộc và quốc gia đại diện bởi những người hiện diện tại Jerusalem vào thời điểm đó. Sự kiện này cũng là biểu trưng các sắc dân và tầng lớp xã hội của những người theo Chúa Kitô suốt mọi thế kỷ. Đối với tín hữu tiên khởi cũng như các thế hệ kế tiếp thì phổ quát không có nghĩa là đồng nhất.
Nhu cầu của tính phổ quát và tính đa dạng cũng được mô tả trong sự hiệp nhất từ tâm cốt của Giáo Hội nhờ thể cách đa số và đa dạng những ân sủng hoặc đoàn sủng, và cũng nhờ các thừa tác vụ và sáng kiến. Về phương diện này chúng ta nhận thấy Đức Maria, Mẹ Chúa Kitô, cũng nhận được sự khẳng định về sứ mệnh hiền mẫu của Người trong ngày Lễ Hiện Xuống. Sứ mệnh hiền mẫu này không phải chỉ đối với Tông Đồ Gioan, nhưng cũng đối với toàn thể các môn đệ Con của Người và toàn thể Kitô hữu (tc. RM 24; LG 59). Căn cứ vào sự kiện căn bản này, có thể nói được rằng tất cả mọi người, cả nam và nữ, tụ họp trong căn phòng trên lầu ở Jerusalem ngày hôm đó đều “đã được rửa bằng Chúa Thánh Linh” (tc. Cv 2:4) và nhận được những ân sủng khác nhau. Về sau Thánh Phaolô giải thích về những ân sủng nói trên: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích lợi chung” (1 Cor 12:4-7). “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người: Thứ nhất là các Tông Đồ. Thứ nhì là các ngôn sứ. Thứ ba là các thầy dạy. Rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các ngôn ngữ khác nhau” (1 Cor 12:28). Qua nhiều đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau này, ngay từ những ngày đầu tiên, Thánh Linh đã tập hợp, điều khiển và làm sinh động Giáo Hội Chúa Kitô.
Thánh Phaolô nhìn nhận và nhấn mạnh sự kiện rằng nhờ Chúa Thánh Linh ban phát những đặc sủng đó (tc. 1 Cor 12:28) cho các tín hữu, mà Giáo Hội có nhiều đặc sủng và thừa tác vụ cần thiết cho sự hiệp nhất của toàn thể cơ cấu. Chúng ta thấy điều này trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus: “Và chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người kia làm ngôn sứ, người khác làm người loan báo Tin Mừng, người khác nữa làm công việc coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Chúa Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô” (Eph 4:11-13).
Tập trung lại các bằng chứng từ các tông đồ và truyền thống Kitô Giáo, Hiến Chế Lumen Gentium tổng hợp sau đây giáo huấn của Công Đồng về việc làm của Chúa Thánh Linh trong Giáo Hội: “Chúa Thánh Linh xây dựng và và dẫn dắt Giáo Hội bằng nhiều ân sủng khác nhau theo phẩm trật và đoàn sủng, trang bị Giáo hội bằng hoa trái của Ngài (tc. Eph 4:11-12; 1 Cor 12:4; Gal 5:22). Nhờ uy lực của Phúc Âm, Chúa Thánh Linh làm cho Giáo Hội luôn luôn tươi trẻ. Nhất là Ngài không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo Hội đến kết hợp hoàn toàn với Phu Quân của mình. Chúa Thánh Linh và Hiền Thê nói với Chúa Giêsu rằng: ‘Xin hãy ngự đến!’”(LG số 4).
Buổi gặp chung ngày 27 tháng Chín, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Bài Giảng của Thánh Phêrô sau khi Chúa Thánh Linh Ngự Xuống
Sách Công Vụ Tông Đồ kể rằng sau khi Chúa Thánh Linh ngự xuống, các tông đồ bắt đầu nói nhiều ngôn ngữ khác nhau “mọi người đều ngỡ ngàng bối rối, nói với nhau, ‘Sự việc này có ý nghĩa gì?’” (Cv 2:12). Sách Công Vụ giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa sự kiện khác thường này, đã mô tả sự việc xảy ra khi các tông đồ và môn đệ nam nữ của Chúa Kitô tụ họp cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa, trong căn phòng trên lầu, và tất cả mọi người đều được “tràn đầy Thánh Linh” (Cv 2:4). Trong trường hợp này chính Chúa Thánh Linh - Đấng An Ủi - vẫn vô hình. Tuy nhiên, hoạt động của các tông đồ và môn đệ Chúa Giêsu rõ ràng là do Chúa Thánh Linh tác động. Từ khi các tông đồ rời khỏi căn phòng trên lầu, đám đông tụ tập chung quanh nhà Tiệc Ly đã nhận ra hoạt động khác thường của các ngài. Những người đó hỏi nhau: “Điều này có ý nghĩa gì?” Tác giả Sách Công Vụ không quên ghi thêm trong số những chứng nhân biến cố này cũng có một số người chế giễu các tông đồ, cho rằng có thể các ngài “say rượu mới” (Cv 2:13).
Hoàn cảnh đó cần có lời giải thích để minh bạch hóa ý nghĩa đích thực của sự việc đã xảy ra. Lời giải thích cũng cần để những người tụ tập bên ngoài nhà Tiệc Ly biết những người ở trong căn phòng trên lầu đã chứng kiến hành động của Chúa Thánh Linh khi Ngài ngự xuống trên các vị đó.
Đây là cơ hội thích hợp để Thánh Phêrô giảng thuyết lần đầu tiên. Dưới thần hướng của Chúa Thánh Linh, Thánh Phêrô cũng đã nói nhân danh và kết hiệp với các tông đồ khác. Thánh Phêrô lần đầu tiên thực hành chức vụ của ngài về rao giảng Tin Mừng, nhà giảng huấn chân lý thần linh và làm chứng cho Ngôi Lời. Có thể nói Thánh Phêrô khởi xướng sứ mệnh của các giáo hoàng và giám mục, những người kế vị ngài và các tông đồ khác suốt mọi thế kỷ. “Khi đó ông Phêrô, đứng chung với mười một tông đồ khác, đã lên tiếng nói” ( Cv 2:14).
Trong bài giảng thứ nhất của Thánh Phêrô, chúng ta nhận thấy cơ cấu tông tòa đã có từ lúc khởi đầu Giáo Hội. Mười một tông đồ khác chia sẻ với Thánh Phêrô cùng một sứ mệnh và ơn gọi thi hành cùng một thẩm quyền làm chứng nhân. Thánh Phêrô nói với tư cách đứng đầu các tông đồ do mệnh lệnh nhận được trực tiếp từ Chúa Kitô. Không một tông đồ nào chất vấn về nhiệm vụ và quyền nhân danh các vị khác mà Thánh Phêrô đã nói trước nhất. Theo Công Đồng Vatican II, sự kiện này biểu hiện việc Chúa Thánh Linh ban nhiều ân phẩm trật và đoàn sủng khác nhau, hướng dẫn và điều khiển Giáo Hội trên đường chân lý (tc. LG 4).
Những lời Thánh Phêrô giảng tại Jerusalem, hiệp thông với mười một tông đồ khác, nhắc chúng ta nhớ nhiệm vụ tông đồ hàng đầu của Giáo Hội là rao giảng Tin Mừng. Công Đồng Vatican II đã minh thị: “Vì giám mục là những người rao truyền đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Kitô, các ngài là những giáo phụ đích thực, nghĩa là những vị thầy có thẩm quyền của Chúa Kitô rao giảng cho những người được trao phó cho các ngài những điều họ phải tin và thực hành dưới minh quang của Chúa Thánh Linh. Các ngài lấy ra những điều cũ mới trong kho tàng Mạc Khải, làm cho đức tin sinh hoa kết trái và luôn luôn cảnh giác để loại bỏ mọi lầm lạc hằng đe dọa đàn chiên” (LG 25). “Các linh mục, với tư cách những cộng sự viên của các giám mục,” cũng “có nhiệm vụ hàng đầu là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi người.” Như vậy, nhiệm vụ của các ngài là chu toàn mệnh lệnh của Chúa Giêsu: ‘... anh em hãy đi khắp thế giới rao giảng Tin Mừng cho mọi người’ (Mc 16:15), các ngài thiết lập và xây dựng Dân Thiên Chúa” (PO 4).
Theo lời trích dẫn từ Công Vụ Tông Đồ trên đây, cũng nên ghi nhận sự kiện là những cá nhân có thần ứng tự nhiên làm chứng về Chúa Kitô không đủ cho việc truyền bá Phúc Âm. Những chuyển động có tính cách đặc sủng này từ Chúa Thánh Linh mà ra và trong một vài khía cạnh những chuyển động đó cho thấy bằng chứng đầu tiên về việc làm của Ngài. Chúng ta nhận thấy điều này trong “đặc ân nói tiếng lạ (nói nhiều ngôn ngữ, glossolalia)” vào ngày Lễ Hiện Xuống. Tuy nhiên, rao giảng Tin Mừng cách có thẩm quyền, chủ động và tích cực, là điều cũng cần thiết. Do hoạt động của Chúa Thánh Linh, sự kiện này xảy ra trong việc rao giảng và dạy giáo lý vào thời các tông đồ và nơi cộng đoàn đầu tiên ở Jerusalem giúp chúng ta có thể tìm thấy trong đó tính cách hiệp nhất và hiểu ý nghĩa sự việc này trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sự kiện này đã xảy ra vào ngày Lễ Hiện Xuống. Điều cần thiết là phải trình bày và giải thích sự kiện đã xảy ra cho những người thuộc mọi dân tộc tụ họp phía bên ngoài nhà Tiệc Ly. Và cũng phải chỉ dẫn cho họ về chương trình cứu độ của Thiên Chúa trong sự việc đã xảy ra.
Bởi thế, chúng ta thấy bài giảng của Thánh Phêrô rất quan trọng. Chính vì vậy, trước khi bắt đầu nghiên cứu nội dung, chúng ta cần ngừng lại giây lát để tìm hiểu con người diễn giả. Trong hai dịp trước ngày Chúa Kitô chịu khổ nạn, Thánh Phêrô đã tuyên xưng niềm tin của ngài vào Chúa Cứu Thế.
Một lần, khi loan báo về Nhiệm Tích Thánh Thể ở vùng lân cận Capernaum và nhiều môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi các tông đồ: “Anh em cũng bỏ đi sao?” (Jn 6:67). Thánh Phêrô đáp bằng những lời được thần khải: “Lạy Thầy, chúng con biết theo ai? Thầy có những lời ban sự sống đời đời; (và) chúng con tin và biết Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Jn 6:68-69).
Lại lần khác nữa, lời tuyên tín của Thánh Phêrô xảy ra gần miền Caesarea Philippi khi Chúa Giêsu hỏi các tông đồ: “Người ta nói Thầy là Ai?” “Ông Simon Phêrô đáp: ‘Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’” (Mt 16:15-16).
Vào ngày Lễ Hiện Xuống, bấy giờ ông Phêrô hết lo sợ về việc chối Chúa Giêsu chiều ngày khổ nạn và đã tuyên xưng cũng niềm tin trên đây vào Chúa Kitô. Nhờ biến cố Vượt Qua tăng cường sức mạnh, ông Phêrô công khai loan báo trước mặt những người hiện diện: Chúa Kitô đã phục sinh! (tc. Cv 2:24 ff).
Hơn nữa, Thánh Phêrô là người đầu tiên nói và cho thấy tâm tư của chính ngài cùng với tâm ý của mười một tông đồ khác mà ngài nhận trách nhiệm chính việc rao giảng và dạy đức tin vào Chúa Kitô, dầu rằng mười một tông đồ kia cùng chia sẻ với ngài bổn phận và trách nhiệm. Trong lời giảng đầu tiên, Thánh Phêrô đã ý thức những điều ngài thực hiện khi thi hành sứ mệnh giáo phụ phát xuất từ thiên chức tông đồ của ngài.
Mặt khác, bài giảng của Thánh Phêrô theo một cách nào đó là phần tiếp dẫn lời giảng dạy của chính Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã làm cho những người nghe Ngài phải tin tưởng, Thánh Phêrô cũng làm như vậy. Chúng ta có thể nói Chúa Giêsu thi hành sứ mệnh của Ngài trong giai đoạn trước cuộc khổ nạn trong viễn ảnh phục sinh, trong khi Thánh Phêrô rao giảng và hành động trong ánh sáng Vượt Qua mà biến cố đó đã hoàn tất. Sự kiện này xác nhận chân lý về sứ mệnh và Tin Mừng của Chúa Kitô. Thánh Phêrô rao giảng và hành động trong ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh, Thánh Linh chân lý, mà những lời nói và việc làm của Chúa Kitô đã chiếu ánh sáng vào chính sự kiện Lễ Hiện Xuống.
Sau cùng, chúng ta đọc trong Công Vụ Tông Đồ: “Ông Phêrô ... lên tiếng ...” (Cv 2:14). Ở đây, dường như tác giả Sách Công Vụ muốn nói tới không phải chỉ sức mạnh lời rao giảng của Thánh Phêrô, mà cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự xác tín và thẩm quyền mà nhờ đó ngài rao giảng. Sự việc xảy ra tương tự những điều Phúc Âm nói về Chúa Giêsu, chẳng hạn khi Ngài giảng dạy thì những người nghe Ngài “đều sửng sốt về giáo huấn của Ngài, vì Ngài giảng dạy họ như người có thẩm quyền” (Mt 1:22; tc. Mc 7:29), “vì Ngài nói rất quyền uy” (xđ Lk 4:32).
Vào ngày Lễ Hiện Xuống, Thánh Phêrô và các tông đồ khác đã nhận được Thánh Linh chân lý, nhờ quyền năng Thánh Linh, ngài có thể rao giảng y như cách thức của Chúa Kitô. Ngôn từ trong chính bài giảng thứ nhất của Thánh Phêrô, ngài đã diễn đạt được thẩm quyền của chân lý mạc khải.
Buổi gặp chung ngày 25 tháng Mười, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Việc Truyền Giáo của Các Tông Đồ Thời Sơ Khai
Trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên anh em; và anh em sẽ làm chứng về Thầy ở Jerusalem, khắp Judea, Samaria và tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Như cha đã viết trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem: “Lời tiên báo này hoàn tất vào ngày Lễ Hiện Xuống. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Linh các tông đồ đã nhận được khi đang cầu nguyện trong phòng Tiệc Ly, Thánh Phêrô tiến ra tiếp xúc với những đoàn người nói nhiều ngôn ngữ khác nhau tụ họp mừng lễ. Ngài loan báo điều mà trước kia chắc chắn ngài đã không có can đảm nói ra” (số 30). Thánh Phêrô là nhân chứng đầu tiên đã công khai long trọng rao giảng về Chúa Kitô phục sinh và Chúa Kitô vinh thắng; Mở đầu việc tông đồ truyền giáo.
Từ quan điểm giáo phụ trong phần suy niệm trước, chúng ta đã nghiên cứu vấn đề: “ông Phêrô cùng với mười một tông đồ khác” (tc. Cv 2:14). Hôm nay chúng ta muốn phân tích nội dung bài giảng thứ nhất của Thánh Phêrô vì là mẫu mực cho nhiều lời tuyên xưng khác nối tiếp trong Công Vụ Tông Đồ và trong lịch sử Giáo Hội sau này.
Thánh Phêrô nói với những người tụ họp gần nhà Tiệc Ly: “Hỡi những người Judea và toàn thể mọi người cư ngụ tại Jerusalem ...” (Cv 2:14). Chính những người đó đã chứng kiến hiện tượng truyền thông bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, và đã nghe bằng chính ngôn ngữ địa phương của họ lời các tông đồ nói về “những việc xảy ra do quyền năng Thiên Chúa” (tc. Cv 2:11). Thánh Phêrô bắt đầu giảng thuyết bằng việc bênh vực và minh giải về những người “được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (Cv 2:3) bị cho là say rượu vì hành vi khác thường của các ngài. Khởi đầu ngài nói: “Những người này không say rượu như các ông tưởng tượng đâu, vì chỉ mới giờ thứ ba trong ngày: nhưng đây là điều đã được ngôn sứ Joel tiên báo” (Cv 2:15-16).
Lời tiên tri của ngôn sứ Joel đã trích đầy đủ trong Công Vụ Tông Đồ: “(Và) Thiên Chúa phán: trong những ngày sau chót Ta sẽ tuôn đổ Thánh Linh của Ta xuống trên nhân loại, và con trai con gái của các ngươi sẽ nói tiên tri” (Cv 2:17). Việc “tuôn đổ Thánh Linh” này trên những người già trẻ và tôi tớ nam nữ, bởi thế sẽ có tính chất phổ quát. Và điều này được xác nhận bằng những dấu chỉ: “Ta sẽ cho thấy những dấu lạ trên trời và dưới đất” (Cv 2:19). Dấu chỉ đó sẽ là những “ngày của Chúa” đang tới gần (tc. Cv 2:20). “Và bất cứ người nào kêu cầu thánh danh Chúa sẽ được cứu độ” (Cv 2:21).
Trong tâm trí của người giảng thuyết, lời tiên tri của ngôn sứ Joel minh giải ý nghĩa của sự kiện mà những người hiện diện đã nhìn thấy dấu chỉ: “việc ban đầy tràn Chúa Thánh Linh.” Hiện tượng đó là hành động siêu nhiên của Thiên Chúa kèm theo với những dấu hiệu tiêu biểu cho việc Thiên Chúa đến mà các ngôn sứ đã loan báo và Tân Ước đã đồng hóa lời các ngôn sứ với việc Chúa Kitô đến. Trong bối cảnh này Thánh Phêrô cô đọng nội dung căn bản lời giảng của ngài và là chính những hạt nhân của việc tông đồ “rao giảng Phúc Âm (kerygma)”: “Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Chúa Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa minh chứng với anh em bằng những công việc huyền diệu, những việc kỳ lạ và dấu chỉ vi diệu mà qua Ngài Thiên Chúa đã làm trước mặt anh em, như chính anh em đã biết điều đó. Theo kế hoạch được ấn định và biết trước của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Ngài vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, giải thoát Ngài khỏi những đau khổ của sự chết, vì sự chết không thể nào kềm chế được Ngài” (Cv 2:22-24).
Không phải tất cả mọi người, từ khắp nơi về mừng Lễ Vượt Qua và Lễ Ngũ Tuần, hiện diện khi Thánh Phêrô giảng đều đã góp phần vào những biến cố ở Jerusalem mà kết thúc bằng cuộc tử nạn trên thánh giá của Chúa Kitô. Nhưng Thánh Phêrô gọi tất cả những người đó là “những người Israel,” những người thuộc về thế giới cổ xưa mà vào thời đó, mọi người đều biết rõ những dấu chỉ việc Chúa đến.
Những dấu chỉ và sự lạ lùng mà Thánh Phêrô nói tới hiển nhiên vẫn còn trong ký ức của cư dân Jerusalem và cả những người nghe ngài nói. Ít nhất những người ấy đã phải nghe Chúa Giêsu Nazareth nói tới những dấu chỉ đó. Dù bất cứ tình huống nào, khi nhắc lại những việc Chúa Giêsu đã làm, Thánh Phêrô chuyển qua sự việc Chúa Giêsu chết trên thập giá, và nói thẳng về trách nhiệm những người đã kết án Ngài phải chết. Tuy nhiên, ngài nói thêm Chúa Kitô “bị nộp theo chương trình được ấn định và biết trước của Thiên Chúa” (tc. Cv 2:23). Vì thế Thánh Phêrô dẫn những người nghe ngài đi vào viễn tượng chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được hoàn thành nhờ khổ hình cứu độ của Chúa Kitô. Và ngay sau đó, ngài minh chứng quyết định về hành động của Thiên Chúa xuyên qua và vượt trên mọi điều người ta làm. Ngài minh xác Chúa Kitô phục sinh: “Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại, giải thoát Ngài khỏi những đau khổ của sự chết, vì sự chết không thể nào cầm giữ Ngài mãi” (Cv 2:24).
Sự kiện đó là điểm tột cùng của việc tông đồ rao giảng Tin Mừng về Chúa Kitô, Chúa Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng sự chết.
Ở điểm này Thánh Phêrô viện dẫn Cựu Ước, kể lại Thánh Vịnh 16 các câu 8-11 về Đấng Thiên Sai:
“Con luôn thấy Ngài trước mặt con,
vì có Ngài ở bên (hữu con) con chẳng khi nào nao núng;
vì thế lòng con hân hoan, và miệng lưỡi con reo vui;
hơn nữa thân xác con sẽ an nghỉ trong hy vọng.
Vì Ngài sẽ chẳng bỏ rơi hồn con nơi Âm Phủ
cũng chẳng để cho Đấng Thánh của Ngài chịu hư nát trong phần mộ.
Ngài đã cho con thấy những nẻo đường về cõi sống;
Ngài sẽ làm cho con tràn đầy hân hoan trước mặt ngài”
(Cv 2:25-28).
Trích văn trên đây là đoạn phù hợp hữu lý từ Thánh Vịnh của vua David mà tác giả Công Vụ Tông Đồ trích theo bản Septuagint (bản Bảy Mươi), tiếng Hy Lạp. Trích dẫn Thánh Vịnh 16 trên đây nhấn mạnh khát vọng của người Israel mong thoát chết, theo ý nghĩa một niềm hy vọng thoát chết ngay cả khi sự chết đã xảy ra.
Rõ ràng Thánh Phêrô cố ý nhấn mạnh những lời Thánh Vịnh không áp dụng vào vua David, mà cho tới ngày đó phần mộ của ngài vẫn còn ở giữa dân cư Jerusalem. Đúng ra, những lời đó nói về hậu duệ của ngài là Chúa Giêsu Kitô: vua David “đã thấy trước và nói về sự phục sinh của Chúa Kitô” (Cv 2:31). Vì thế những lời tiên tri đã xảy ra trọn vẹn: “Thiên Chúa đã làm chính Chúa Giêsu cho sống lại và tất cả chúng tôi làm chứng điều này. Vì thế được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, Ngài đã nhận được lời hứa của Chúa Cha ban Chúa Thánh Linh và đã đổ tràn đầy Thánh Linh mà các bạn thấy và nghe ... Vậy toàn thể nhà Israel cần phải biết chắc rằng Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá thì Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:32-33, 36).
Bữa chiều trước cuộc khổ hình, Chúa Giêsu nói với các tông đồ tại phòng Tiệc Ly về Chúa Thánh Linh: “Ngài sẽ làm chứng về Thầy ... và anh em cũng là những nhân chứng” (Jn 15:26-27). Như cha đã viết trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem: “Trong bài giảng thứ nhất của thánh Phêrô ở Jerusalem ‘việc làm chứng’ này rõ ràng ngay từ đầu: đó là Thánh Linh An Ủi và các tông đồ làm chứng về Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và phục sinh” (số 30).
Trong chứng ngôn trên đây thánh Phêrô muốn nhắc những người nghe ngài về mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh. Nhưng ngài cũng muốn giải thích những sự kiện về Lễ Hiện Xuống mà họ chứng kiến, cho thấy những sự kiện đó là dấu chỉ việc Chúa Thánh Linh ngự đến. Đấng An Ủi thực sự đã đến do Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Chúa Thánh Linh đến và biến đổi những người Galilee đó, những người được ký thác việc làm chứng về Chúa Kitô “được tôn vinh bên hũu Chúa Cha” (tc. Cv 2:33), nghĩa là được tôn vinh bởi Ngài đã chiến thắng sự chết. Vì thế việc Chúa Thánh Linh ngự đến là lời xác nhận quyền năng thần linh của Chúa Kitô phục sinh. “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36). Trong Thư gửi tín hữu tại Roma, Thánh Phaolô cũng tuyên xưng: “Chúa Giêsu là Chúa” (Rom 10:9).
Buổi gặp chung ngày 8 tháng 11, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Tác Dụng Lời Thánh Phêrô Giảng vào Ngày Lễ Hiện Xuống
Sau khi ghi lại bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô ngày Lễ Hiện Xuống, tác giả Công Vụ Tông Đồ nói: những người hiện diện “đau đớn xúc động tâm can” (Cv 2:37). Những lời hùng hồn này cho thấy Chúa Thánh Linh hoạt động trong tâm hồn những người nghe lời rao giảng truyền giáo đầu tiên của Tông Đồ Phêrô. Ngài làm chứng Chúa Kitô chịu khổ hình thập giá và phục sinh và giải thích những biến cố khác thường đã xảy ra ngày hôm đó. Đặc biệt, lời trình bày công khai đầu tiên về mầu nhiệm Vượt Qua đã đi vào tâm cốt những khát vọng của người thời Cựu Ước, khi Thánh Phêrô nói: “Chúa Giêsu mà các anh em đóng đinh thập giá đã được Thiên Chúa tôn phong làm Chúa và Đấng Kitô” (Cv 2:36).
Cũng Chúa Thánh Linh, Đấng đã ngự xuống với các tông đồ, lúc này hoạt động trong tâm hồn những người nghe lời thánh tông đồ giảng. Những lời Tông Đồ Trưởng Phêrô đánh động tâm can và làm thức dậy trong họ “sự lên án về tình trạng tội lỗi của họ” là bước đầu của việc cải đổi.
Vì quá xúc động thống hối, nên “... những người đó nói với ông Phêrô và các tông đồ khác: ‘Thưa quí huynh đệ, chúng tôi phải làm gì?’” (Cv 2:37). Câu hỏi, “chúng tôi phải làm gì?” biểu lộ tâm ý sẵn sàng. Đây là thiên hướng thành tâm của những người nghe lời Tông Đồ Phêrô khiến họ ý thức rằng cần phải thay đổi cuộc sống. Những người đó nói với Thánh Phêrô và các tông đồ khác. Họ biết Thánh Phêrô cũng nói thay cho mười một tông đồ kia, vì tất cả các tông đồ đều là chứng nhân cho cùng một chân lý, và được trao cho cùng một sứ mệnh. Điều cũng quan trọng là những người đó gọi các tông đồ là “quí huynh đệ,” bắt chước Thánh Phêrô trong lời giảng của ngài đã nói trong tinh thần huynh đệ, và trong phần cuối của bài giảng ngài đã gọi những người hiện diện là “quí huynh đệ.”
Khi đó chính Thánh Phêrô trả lời những người hiện diện. “Hãy ăn năn thống hối” là lời đáp giản dị súc tích (Cv 2:38). Chúa Giêsu khởi đầu sứ mệnh thiên sai của Ngài bằng chính lời kêu gọi này (tc. Mc 1:15). Nhờ sức mạnh của Thánh Linh Chúa Kitô vào ngày Lễ Hiện Xuống mà Thánh Phêrô đã nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Hãy ăn năn thống hối” (tc. Mc 1:15).
Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã nhấn mạnh “ăn năn thống hối” là bước quan trọng trong tiến trình cải đổi mà Chúa Thánh Linh hoạt động trong chúng ta. “Do việc trở nên ‘ánh sáng soi mọi con tim,’ tức là ánh sáng lương tâm, Chúa Thánh Linh ‘làm cho nhận biết tội lỗi,’ có nghĩa: Ngài làm cho người ta nhận ra điều xấu xa của chính họ, và đồng thời hướng dẫn người ta tới điều tốt lành. ... Như thế, nhờ ảnh hưởng của Đấng An Ủi, việc cải đổi tâm hồn con người là điều kiện bất khả ly để ơn tha thứ tội lỗi được thể hiện” (số 42).
Thánh Phêrô nói “ăn năn thống hối,” có nghĩa là thay đổi: từ chối bỏ Chúa Kitô chuyển sang lòng tin nơi Đấng Phục Sinh.
Khổ hình thập giá đã khẳng định việc khước từ Chúa Kitô, niêm ấn bằng cái chết ô nhục của Ngài trên đồi Golgotha. Thánh Phêrô kêu gọi những người đã đóng đinh Chúa Giêsu tin vào Đấng Phục Sinh: “Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, giải thoát Ngài khỏi mọi đau đớn của sự chết” (Cv 2:24). Như thế Lễ Hiện Xuống là sự xác nhận việc Chúa Kitô phục sinh.
Trước hết, lời kêu gọi ăn năn thống hối nói đến lòng tin vào Chúa Kitô Đấng Cứu Thế. Hiển nhiên, qua khổ hình thập giá và cái chết của Chúa Kitô, Mầu Nhiệm Phục Sinh là mạc khải quyền năng Thiên Chúa đem lại ơn cứu độ và giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi.
Nếu qua lời rao giảng của Thánh Phêrô mà Chúa Thánh Linh “làm cho người ta nhận biết tội lỗi” thì Ngài đã làm việc đó “nhờ công cuộc cứu chuộc đã được hoàn tất bằng Máu của Con Người (Máu của Chúa Kitô)”. Thư gửi các tín hữu Do Thái nói “Máu này thanh tẩy lương tâm” (tc. Dt 9:14). Bởi thế, có thể nói khổ hình cứu chuộc của Chúa Giêsu mở cửa để Chúa Thánh Linh đi vào nơi thâm sâu nhất tâm hồn mỗi người, nghĩa là vào “lương tâm sâu thẳm nhất của con người” (DViv 42).
Trong lời giảng ngày Lễ Hiện Xuống, thánh Phêrô tuyên xưng và làm chứng rằng điều này đạt tới trình độ thâm sâu thầm kín nhất nhờ hành động của Chúa Thánh Linh trong ơn cứu chuộc của Chúa Kitô.
Thánh Phêrô nói tiếp để kết thúc thông điệp của ngài như sau: “Từng người anh chị em hãy ăn năn thống hối và chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được ơn tha thứ tội lỗi; và anh chị em sẽ nhận được Chúa Thánh Linh” (Cv 2:38). Ở đây chúng ta nhớ lại điều Thánh Phêrô và các tông đồ khác đã nghe Chúa Giêsu nói sau lúc phục sinh, khi “Ngài mở trí khôn các ông hiểu Sách Thánh, và nói với các ông: ‘Như được chép trong Sách Thánh, Đấng Kitô phải chịu khổ hình và từ cõi chết sống lại ... việc ăn năn thống hối và ơn tha thứ khỏi tội lỗi phải được rao giảng nhân danh Ngài cho khắp muôn dân, bắt đầu từ Jerusalem’” (Lc 24:45-47).
Trung thành với những điều Chúa Kitô đã sắp đặt (tc. Mc 16:16; Mt 28:19), Thánh Phêrô không những chỉ kêu gọi ăn năn thống hối mà cũng kêu gọi việc chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Kitô “để được tha thứ ... tội lỗi” (Cv 2:38). Vào ngày Lễ Hiện Xuống các tông đồ đều “được rửa trong Chúa Thánh Linh” (tc. Cv 2:4). Vì thế, khi truyền bá niềm tin vào Đấng Kitô, Chúa Cứu Thế, các ngài thúc giục dân chúng chịu Phép Rửa, nhiệm tích đầu tiên của đức tin. Vì Phép Rửa có hiệu lực tha thứ tội lỗi, đức tin tìm thấy được trong Phép Rửa một hình thức diễn tả nhiệm tích của mình để con người có thể chia sẻ ân sủng của Chúa Thánh Linh.
Đây là đường lối thông thường của việc cải đổi và ân sủng. Tuy nhiên cũng không loại bỏ những đường lối khác, vì “Thánh Linh muốn thổi đi đâu thì thổi” (tc. Jn 3:8). Chúa Thánh Linh có thể hoàn tất công việc cứu độ bằng việc thánh hóa con người ngoài nhiệm tích, khi không thể lãnh nhận nhiệm tích được. Đó là điều huyền nhiệm của việc gặp gỡ giữa ân sủng thần linh với linh hồn con người. Chúng ta tạm ngưng ở đây, vì chúng ta sẽ lại bàn tới điều này trong những suy gẫm về Phép Rửa, nếu Chúa muốn.
Trong Tông Huấn Domimum et Vivificantem, cha đã phân tích chiến thắng tội lỗi đạt được nhờ Chúa Thánh Linh khi dẫn chiếu việc làm của Chúa Kitô Đấng Cứu Thế. Và “Nhờ ơn thúc đẩy Chúa Thánh Linh trút xuống trong ngày Lễ Hiện Xuống và qua tác vụ tông đồ rao giảng thời Giáo Hội sơ khai, việc nhận thức được vấn đề tội lỗi làm hiển lộ quyền năng cứu độ của Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và phục sinh.” Như vậy lời hứa liên quan đến Chúa Thánh Linh được nói trước ngày Phục Sinh đã hoàn tất: “Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói rõ cho anh em.” Vì thế, trong ngày Lễ Hiện Xuống, Thánh Phêrô nói về tội của những người ‘không tin’ và đẩy Chúa Giêsu Nazareth tới cái chết ô nhục, Chúa Thánh Linh là chứng nhân cuộc vinh thắng đối với tội lỗi: mà theo một ý nghĩa nào đó, là một chiến thắng đã đạt được đối với tội lỗi kinh khủng nhất mà sao con người có thể phạm là giết Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đồng bản tính với Chúa Cha! Cũng vậy, cái chết của Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết của loài người: ‘Ôi sự chết, Ta sẽ là cái chết của ngươi,’ vì Con Thiên Chúa bị đóng đinh và chết trên thập giá đã ‘chiến thắng’ tội lỗi nhân loại và cả mọi tội lỗi cá nhân, cả đại trọng tội người ta đã phạm là giết Chúa Cứu Thế tại Jerusalem vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Vì tội lỗi trầm trọng lớn lao kinh khủng nhất về phần nhân loại được đền bù nhờ hiến tế của tình yêu tối thượng của trái tim Chúa Cứu Thế, tình yêu đó chiến thắng sự xấu xa ác độc của tất cả mọi tội lỗi nhân loại” (số 31).
Vì thế chiến thắng của thập giá là chiến thắng của tình yêu! Đây là chân lý bao gồm trong lời thánh Phêrô hô hào cải đổi qua Phép Rửa.
Nhờ tình yêu chiến thắng của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng được sinh ra trong Phép Rửa qua việc làm của Chúa Thánh Linh vào ngày Lễ Hiện Xuống, khi những người đầu tiên trở lại với Chúa Kitô.
Công vụ Tông Đồ nói: “những người tiếp nhận lời ông (Phêrô) đều lãnh Phép Rửa, và ngày hôm đó có khoảng ba ngàn người được thêm vào số những người tin theo Chúa Kitô” (Cv 2:41), “những người đó được thêm vào” số những người trước đó “đã được rửa trong Chúa Thánh Linh (các tông đồ và môn đệ).” Được rửa “bằng nước và Chúa Thánh Linh,” những người này trở nên cộng đồng “con cái được thừa nhận của Thiên Chúa” (tc. Rom 8:15). Là “con cái trong Chúa Con” (tc. Eph 1:5), những người này trở nên “một” trong mối liên kết của tình huynh đệ mới. Qua hành động của Chúa Thánh Linh những người này trở nên Giáo Hội Chúa Kitô.
Về phương diện này chúng ta phải nhớ lại sự kiện liên quan đến ông Simon Phêrô xảy ra trên hồ Gennesaret. Thánh sử Luca ghi: Chúa Giêsu “bảo ông Simon, ‘Cho thuyền ra chỗ sâu mà thả lưới.’ Và ông Simon đáp, ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà chẳng được gì. Nhưng vâng lời Thầy tôi sẽ thả lưới.’ Và khi thả lưới, các ông bắt được một mẻ lớn, lưới gần rách ... và cá đổ đầy hai thuyền, đến độ gần chìm. Khi ông Simon Phêrô thấy cảnh này, ông quì ôm gối Chúa Giêsu và nói, ‘Lạy Chúa, xin rời xa con, vì con là kẻ tội lỗi ...’ Và Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, ‘Đừng sợ; từ nay anh sẽ thu phục người ta.’ Và khi các ông đã đưa thuyền vào bờ, các ông bỏ mọi sự và đi theo Ngài” (Lc 5:4-8; 10-11).
Dấu lạ này bao gồm lời loan báo sẽ chiến thắng đối với tội lỗi nhờ đức tin, ăn năn thống hối và Phép Rửa, mà thánh Phêrô rao giảng nhân danh Chúa Kitô. Lời loan báo này đã thành sự thực vào ngày Lễ Hiện Xuống, và được minh chứng bởi việc làm của Chúa Thánh Linh. Ngư phủ Phêrô và các bạn đồng nghiệp của ông trên hồ Gennesaret đã tìm được ở điều thực tế này ý nghĩa của quyền năng Chúa Kitô phục sinh, và đồng thời ý nghĩa sứ mệnh tông đồ của các ngài. Các ngài nhận thấy lời tiên báo: “Từ nay anh sẽ là kẻ thu phục người ta” được thể hiện.
Buổi gặp chung ngày 15 tháng Mười Một, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Vương Quốc Chúa Kitô trong Lịch Sử Nhân Loại
Như chúng ta thấy trong tiến trình khai triển những suy niệm về Thánh Linh học, Chúa Thánh Linh tự khải quyền năng cứu độ của Ngài trong ngày Lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Linh được mạc khải là “Đấng An Ủi khác” (tc. Jn 14:16), Đấng “từ Chúa Cha mà ra” (Jn 15:26), “Đấng (mà) Chúa Cha phái đến nhân danh Chúa Con” (tc. Jn 14:26). Chúa Thánh Linh được mạc khải như một “Ngôi Vị” khác hẳn với Chúa Cha và Chúa Con, đồng thời cùng một bản tính với Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Con đã mạc khải Chúa Thánh Linh, tuy nhiên Ngài vẫn vô hình. Chúa Thánh Linh được mạc khải bằng uy quyền và hành động theo thiên chức của Ngài, khác biệt với uy quyền và hành động của Chúa Con, nhưng đồng thời vẫn kết hiệp mật thiết với Chúa Con. Trước ngày chịu khổ hình, Chúa Kitô nói về Chúa Thánh Linh: “Ngài sẽ tôn vinh Thầy vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy và nói cho anh em biết” (Jn 16:14). “Ngài sẽ không tự mình mà nói, nhưng Ngài sẽ nói những gì Ngài nghe, và sẽ nói cho anh em biết trước những việc sẽ xảy ra” (Jn 16:13).
Đấng Cố Vấn An Ủi không thay thế Chúa Kitô. Ngài nối gót Chúa Kitô vì cuộc hy sinh cứu độ của Chúa. Chúa Thánh Linh đến ngõ hầu để Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và Thiên Chúa, có thể hiện diện và hành động trong Giáo Hội.
Cha đã viết trong Tông Huấn Dominum et Vivifi-cantem,: “Như thế giữa Chúa Thánh Linh và Chúa Kitô, trong nhiệm cuộc cứu độ, có mối liên kết mật thiết mà từ đó Thánh Linh hoạt động trong lịch sử nhân loại với tư cách ‘Đấng An Ủi khác,’ luôn bảo đảm việc loan truyền và phổ biến Tin Mừng mà Chúa Giêsu Nazareth đã mạc khải. Như vậy trong Chúa Thánh Linh-Đấng Phù Trợ, mà trong mầu nhiệm và hành động của Giáo Hội, luôn luôn nối tiếp vai trò lịch sử trên trần gian của Chúa Cứu Thế và công việc cứu chuộc của Ngài và vinh quang của Chúa Kitô tỏa sáng được minh chứng bằng những lời sau đây: ‘Ngài (Thánh Linh chân lý) sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết’”(số 7).
Chân lý bao gồm trong lời Chúa Giêsu hứa ở trên trở nên rõ ràng vào ngày Lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Linh “mạc khải” trọn vẹn mầu nhiệm, sứ mệnh thiên sai và cứu thế của Chúa Kitô. Giáo Hội tiên khởi biết sự kiện này, như trong lời rao giảng đầu tiên của Thánh Phêrô và nhiều giai đoạn về sau được ghi trong Công Vụ Tông Đồ.
Sự việc có ý nghĩa quan trọng là vào ngày Lễ Hiện Xuống khi trả lời câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?” Thánh Phêrô hô hào những người đó: “Hết thảy mọi người hãy ăn năn thống hối và chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Cv 2:38). Khi phái các tông đồ đi khắp thế giới, Chúa Giêsu truyền cho các ông làm Phép Rửa “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19). Thánh Phêrô nhắc lại nguyên văn lời Thầy và đã có “khoảng ba ngàn người” (Cv 2:41) lãnh Phép Rửa “nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Cv 2:38). Cụm từ “nhân danh Chúa Giêsu Kitô” là chìa khóa đức tin đi vào toàn thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và nhờ đó người tín hữu trở nên báu vật của Chúa Kitô, là những cá nhân đã tận hiến cho Ngài. Theo ý nghĩa này, Công Vụ Tông Đồ nói về kêu cầu danh Chúa Giêsu để được cứu độ (tc. 2:21; 3:16; 4:10-12; 8:16; 10:48; 19:5; 22:16). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài luôn luôn xác quyết cũng đòi hỏi “tin vào danh Chúa Kitô” để được cứu độ (tc. Rom 6:2; 1 Cor 6:11; Gal 3:27; Giacôbê 2:7). Lúc Tiệc Ly Chúa Giêsu hứa ban hồng ân của Chúa Ba Ngôi khi Ngài nói với các tông đồ: “Thánh Linh chân lý ... sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết. Mọi sự của Chúa Cha là của Thầy; vì thế Thầy nói Ngài lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết” (Jn 16:13-15). Hồng ân này của Chúa Ba Ngôi trở thành hiện thực nhờ Phép Rửa “trong Chúa Thánh Linh,” được ban “nhân danh Chúa Kitô.”
Trong tất cả mọi việc các tông đồ đã làm sau Lễ Hiện Xuống đều nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, các ngài viện dẫn Chúa Kitô là nguyên do, là nguyên lý và uy lực hành động. Bởi thế, khi chữa người què “gần cổng đền thờ gọi là Cửa Đẹp” (Cv 3:2), Thánh Phêrô nói với người đó: “Tôi không có bạc vàng gì cả, nhưng có thứ gì thì tôi tặng anh thứ đó; nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazareth, anh hãy bước đi!” (Cv 3:6). Phép lạ này lôi kéo nhiều người đến cổng Salomon, và cũng như vào ngày Lễ Hiện Xuống, Thánh Phêrô nói với họ về Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá “mà Thiên Chúa đã làm cho Ngài từ trong kẻ chết sống lại, và chúng tôi làm chứng điều này” (Cv 3:15). Chính lòng tin vào Chúa Kitô đã chữa người què đó: “Đức tin vào danh Ngài đã làm cho người mà anh em nhìn thấy và quen biết được lành mạnh; và đức tin mà qua đó Chúa Giêsu đã ban cho người này sức mạnh toàn hảo trước sự chứng kiến của anh em” (Cv 3:16).
Khi các tông đồ bị gọi tới trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Sanhedrin) lần đầu tiên, “Ông Phêrô, được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (Cv 4:8) đã lại làm chứng về Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và phục sinh trước mặt “các nhà lãnh đạo và kỳ lão”. Ngài kết luận phần trả lời công nghị như sau: “Ngoài Ngài (Chúa Giêsu Kitô) ra, không người nào khác đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ đó nhân loại được cứu độ” (Cv 4:12). Tác giả Sách Công Vụ viết rằng khi các tông đồ được thả ra, “các ngài đến với bạn hữu của các ngài” và cùng với họ chúc tụng Chúa (Cv 4:23-24). Kế đến xảy ra như thể Lễ Hiện Xuống thứ hai: “Khi các ngài cầu nguyện, nơi các ngài đang tụ họp rúng động và mọi người được tràn đầy Chúa Thánh Linh và hiên ngang nói lời Thiên Chúa” (Cv 4:31). Về sau, trong cộng đồng Kitô hữu tiên khởi và trước mặt dân chúng “nhờ quyền năng vĩ đại của Thiên Chúa, các tông đồ hiên ngang làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại, và Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người dồi dào ân sủng” (Cv 4:33).
Phó tế Stephen là điển hình, ngài đặc biệt hiên ngang làm chứng về Chúa Kitô. Ngài là vị tử đạo đầu tiên: “Ông Stephen, tràn đầy Chúa Thánh Linh, ngước mắt đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh quang Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa, ông nói, ‘Nhìn này, tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.’ Nhưng chúng lớn tiếng la lên, bị tai để khỏi nghe, và nhào vào bắt ông (Stephen)” (Cv 7:55-59).
Từ những tường thuật trong Công Vụ Tông Đồ, rõ ràng là các tông đồ giảng dạy dưới ảnh hưởng Chúa Thánh Linh có y cứ điểm và yếu tố then chốt trong Chúa Kitô. Chúa Thánh Linh ban cho các tông đồ và môn đệ khả năng thấu triệt chân lý Phúc Âm Chúa Kitô đã rao giảng, và đặc biệt là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Ngài. Chúa Thánh Linh làm bùng cháy trong các ngài lòng yêu mến Chúa Kitô tới mức có thể hy sinh mạng sống. Từ khởi đầu, Chúa Thánh Linh bảo đảm Giáo Hội là vương quốc được Chúa Kitô thiết lập. Nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh với sự cộng tác của các tông đồ và những người kế vị các ngài cùng toàn thể Giáo Hội, vương quốc này sẽ phát triển theo dòng lịch sử cho tới tận thế. Không thấy một dấu vết trong các sách Phúc Âm, Công Vụ Tông Đồ hoặc trong những thư của các thánh tông đồ về một điểm nào thuộc Thánh Linh học nói Vương Quốc Chúa Cha (Cựu Ước) và Vương Quốc của Chúa Kitô (Tân Ước) sẽ phải được thay thế bởi Vương Quốc của Chúa Thánh Linh, như những lời khẳng định của “nhóm người thông linh” (spirituals). Những người này vượt trên mọi lề luật, ngay cả luật Phúc Âm do Chúa Giêsu rao giảng. Thánh Thomas Aquinas viết, “luật cũ không phải chỉ của Chúa Cha, nhưng cũng của Chúa Con, vì luật cũ tiên báo (prefigures) Chúa Kitô. ...” Cũng vậy, luật mới không phải chỉ thuộc về Chúa Kitô, nhưng cũng thuộc về Chúa Thánh Linh, như lời thánh Phaolô nói: “Luật của thần khí sự sống trong Chúa Giêsu Kitô ...” (Rom 8:2). Vì thế chúng ta sẽ không trông đợi luật nào khác có thể là Luật của Chúa Thánh Linh” (Summa Theol. .. I,II q.106, a. 4, ad 3).
Chúng ta cần phải kiểm soát lại luận cứ của một số người trong thời Trung Cổ, ảnh hưởng bởi những suy đoán huyền bí của tu sĩ Joachim de Fiore Calabrian (d. 1202), mộng mơ và tiên đoán việc xuất hiện “vương quốc thứ ba” để canh tân hoàn vũ chuẩn bị cho ngày thế mạt, mà Chúa Giêsu đã báo trước (tc. Mt 14:4). Nhưng Thánh Thomas Aquinas ghi chú thêm “từ khởi đầu việc rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu đã nói “Nước trời đã đến rồi’ (Mt 4:17). Vì thế thật là ngớ ngẩn khi nói Phúc Âm Chúa Kitô không phải là Phúc Âm nước trời” (Summa Theol., I, II, q.106, a. 4, ad 4). Đây là một trong một vài trường hợp rất hiếm, Thánh Tiến Sĩ đã dùng lời lẽ cứng rắn phê bình một ý kiến sai lầm, vì vào thế kỷ mười ba, cuộc tranh luận do những lời nói điên loạn của “nhóm thông linh” xảy ra nhan nhản. Những người đó bóp méo thuyết của tu sĩ Joachim. Thánh Thomas nhìn thấy mối nguy hiểm của những tuyên cáo độc lập và canh tân xây dựng trên sự suy đoán về đặc sủng. Những điều đó phương hại tới nguyên nhân tối thượng Phúc Âm và nước Thiên Chúa đích thực. Vì thế Thánh Thomas lại bàn đến sự cần thiết của “việc rao giảng Phúc Âm kết quả mỹ mãn khắp thế giới, tức là việc thiết lập Giáo Hội khắp mọi dân tộc. Và theo ý nghĩa này ... Phúc Âm chưa được rao giảng khắp thế giới; tận thế sẽ chỉ đến sau khi việc rao giảng này hoàn tất” (Summa Theol. I, II, q, 106, a. 4. ad 4).
Sự kiện dẫn thượng đã từng là hệ thống tư tưởng của Giáo Hội từ thời sơ khai, dựa trên căn bản lời giảng dạy của Thánh Phêrô và các tông đồ. Ở đó người ta không tìm thấy dẫu chỉ bóng mờ của việc nhị phân (dichotomy) giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Linh. Trái lại, lời giảng dạy của các ngài minh xác những lời Chúa Giêsu đã nói trong Tiệc Ly về Đấng Phù Trợ: “Ngài không tự quyền mình mà nói, nhưng Ngài nói điều Ngài nghe, và Ngài nói cho anh em biết những việc sẽ (phải) xảy ra. Ngài sẽ vinh danh Thầy, vì Ngài (sẽ) lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết” (Jn 16:13-14).
Chúng ta phải vui mừng về số lượng và mức độ tận hiến do ngành thần học của anh em Đông Phương đối với công cuộc nghiên cứu về sự liên hệ giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Linh. Mối liên hệ này diễn tả cách thâm sâu nhất trong Thần Khí-Chúa Kitô nhờ việc Chúa Kitô phục sinh và Lễ Hiện Xuống, phù hợp với những lời Thánh Phaolô: “Adam cuối cùng đã trở nên Thần Khí ban sự sống” (1 Cor 15:45).
Sự kiện liên hệ dẫn thượng là cánh đồng rộng mở cho việc nghiên cứu và chiêm niệm mầu nhiệm về Chúa Kitô và cũng về Thiên Chúa Ba Ngôi. Tông Huấn Dominum et Vivificantem nói: Sứ mệnh này liên kết mật thiết với sứ mệnh của Chúa Kitô, “Các tông đồ rao giảng và làm chứng việc Thiên Chúa tối cao tự khải trọn vẹn, hoàn tất trong Chúa Kitô, và tiếp tục hiển lộ trong Giáo Hội qua sứ mệnh của Đấng An Ủi vô hình, Thánh Linh chân lý. Sứ mệnh của Đấng An Ủi vô hình nối kết mật thiết với và rút lấy từ sứ mệnh của Chúa Kitô, củng cố và bao bọc toàn vẹn trong lịch sử những hiệu quả cứu độ của Ngài như thế nào, được mô tả bằng động từ ‘lấy’: ‘Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.’ Như để giải thích cụm từ ‘Ngài sẽ lấy’ bằng việc minh giải nguồn hiệp nhất Thần Linh và Ba Ngôi, Chúa Giêsu nói thêm: ‘Mọi sự của Chúa Cha là của Thầy; vì thế Thầy nói Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết.’ Do chính sự kiện lấy những gì là ‘của Thầy’ Ngài sẽ rút lấy ‘những gì là của Chúa Cha’” (số 7).
Chúng ta phải cùng nhau thẳng thắn nhìn nhận: mầu nhiệm về sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi giữa nhân loại qua vương quốc Chúa Kitô và Chúa Thánh Linh là chân lý tuyệt mỹ và hân hoan nhất mà Giáo Hội có thể tặng cho thế giới.
Buổi gặp chung ngày 22 tháng Mười Một, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh trong Đời Sống Giáo Hội Sơ Khai
Chúa Thánh Linh ngự đến trong ngày Lễ Hiện Xuống là biến cố độc nhất, nhưng không chấm dứt ở đó. Thực ra, Chúa Thánh Linh ngự đến trong ngày Lễ Hiện Xuống là khởi đầu một tiến trình lâu dài, mà những giai đoạn đầu tiên được ghi trong Công Vụ Tông Đồ. Những giai đoạn này liên quan trước nhất đến đời sống Giáo Hội tại Jerusalem. Sau khi làm chứng về Chúa Kitô, về Chúa Thánh Linh và họp Công Đồng thứ nhất, các tông đồ đã phải tự biện minh trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Sanhedrin). Các ngài bênh vực quyền sinh tồn của cộng đoàn các môn đệ và những người theo Chúa Kitô đầu tiên. Công Vụ Tông Đồ cho biết: ngay cả trước mặt các kỳ lão, các tông đồ đã được nâng đỡ bởi cùng uy lực mà các ngài đã nhận trong ngày Lễ Hiện Xuống: các ngài “được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (tc. Cv 4:8).
Sức mạnh Chúa Thánh Linh hiển lộ ở một số giai đoạn và hoàn cảnh trong đời sống cộng đồng tại Jerusalem, như Sách Công Vụ ghi nhận rất rõ ràng.
Chúng ta tóm lược những giai đoạn này, bắt đầu từ lời cầu nguyện chung của cộng đoàn. Khi từ Thượng Hội Đồng Do Thái (Sanhedrin) trở về, các tông đồ tường thuật cho anh chị em tín hữu biết những lời các thượng tế và kỳ lão đã nói. “Khi đó cộng đoàn cùng nhau cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa ...” (Cv 4:24). Thánh Luca ghi: trong lời cầu nguyện nồng nàn, các tông đồ nhìn nhận kế hoạch thần linh trong việc các ngài bị bách hại, nhắc lại điều Thiên Chúa đã nói “qua Chúa Thánh Linh” (Cv 4:25). Các ngài nhắc lại những lời Thánh Vịnh 2 (câu 1-2) về sự giận dữ mà vua chúa và người trần thế trào ra “chống lại Thiên Chúa và (chống lại) Đấng Được Xức Dầu.” Các ngài áp dụng những lời này vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu: “Rõ ràng trong thành này cả Herod và Pilate, cùng với dân ngoại và dân Israel, hợp nhau chống lại người tôi tớ thánh của Thiên Chúa là Chúa Giêsu, Đấng mà Thiên Chúa đã xức dầu, họ thi hành mọi điều mà quyền năng và chương trình của Chúa đã an bài xảy ra. Và lúc này, lạy Chúa, xin nhìn những đe dọa của họ mà ban cho các tôi tớ Chúa can đảm hiên ngang nói lời Chúa” (Cv 4:25-29). Đây là lời cầu nguyện tín thác cho Thiên Chúa, và vào cuối lời cầu nguyện thì dường như Chúa Thánh Linh tái hiển lộ trong một Lễ Hiện Xuống mới.
“Sau khi các ngài cầu nguyện, nơi các ngài tụ họp rung động” (Cv 4:31). Lúc ấy lại một sự hiển lộ mới về quyền năng của Chúa Thánh Linh mà mọi người đều thấy rõ, như đã xảy trong ngày Lễ Hiện Xuống thứ nhất. Hơn nữa, ở nơi cộng đồng tụ họp xảy ra những điểm tương tự như tại căn phòng trên lầu. Điều này cho thấy Chúa Thánh Linh muốn toàn thể cộng đồng tham gia hành động cải đổi của Ngài. Khi đó “mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Linh”: không phải chỉ riêng các tông đồ là những người đã đương đầu trực tiếp với các thủ lãnh dân chúng, mà tất cả “mọi anh chị em tín hữu” (Cv 4:23) cùng tụ họp với các ngài, những người tạo thành trung tâm và cốt trụ của cộng đồng tiên khởi. Sách Công Vụ cho biết nhờ tình trạng tái tuôn ơn Chúa Thánh Linh, lòng nhiệt thành của các ngài dâng cao và “các ngài hiên ngang mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4:31). Điều này đã đáp ứng lời các ngài cầu xin: “Xin cho các tôi tớ Chúa hiên ngang mạnh dạn nói lời Chúa” (Cv 4:29).
Vì thế Lễ Hiện Xuống thứ hai đã lại mở đầu sứ mệnh rao giảng tin mừng sau khi Thượng Hội Đồng Do Thái tra xét và tống ngục các tông đồ. Quyền năng Chúa Thánh Linh hiển lộ cách đặc biệt trong sự hiên ngang mạnh dạn của Thánh Phêrô và Gioan, khiến các thành viên Công Nghị Do Thái ngạc nhiên “vì họ thấy các ngài là những người bình dân, thất học” (Cv 4:13). Sách Công Vụ lại nhấn mạnh “các ngài được tràn đầy Chúa Thánh Linh và mạnh dạn hiên ngang nói lời Thiên Chúa.”
Hơn nữa, toàn thể đời sống cộng đồng tiên khởi ở Jerusalem mang những dấu ấn Chúa Thánh Linh là Đấng vô hình hướng dẫn và soi sáng họ. Bối cảnh tổng quát đó như Thánh Luca mô tả giúp chúng ta thấy nơi cộng đồng Jerusalem khuôn mẫu cho các cộng đồng Kitô hữu (được thành lập) suốt nhiều thế kỷ. Các cộng đồng Giáo Hội này gồm các giáo xứ và cộng đồng tu sĩ, trong đó kết quả của “ơn Chúa Thánh Linh tràn đầy” được nhìn thấy rõ dưới một số hình thức căn bản về tổ chức và hệ thống hóa phần nào theo Giáo Luật.
Những hình thức chính yếu đó là: thứ nhất, “hiệp thông (koinonia)” trong tình huynh đệ và yêu thương (tc. Cv 2:42), đến độ có thể nói về các Kitô hữu tiên khởi rằng họ “đồng tâm nhất ý” (Cv 3:32); tinh thần cộng đồng chia sẻ, trao tài sản riêng cho các tông đồ để phân phát cho nhau tùy theo nhu cầu mỗi người (Cv 4:34-37), hoặc để các ngài sử dụng, trong khi vẫn duy trì quyền sở hữu để “không ai nói bất cứ thứ gì mình có là sở hữu riêng mình” (4:32; tc. 2:44-45; 4:34-37); thứ hai, hiệp thông “tận lực theo giáo huấn của các tông đồ” (Cv 2:42) và “làm chứng Chúa Giêsu phục sinh” (Cv 4:33); thứ ba, hiệp thông trong “việc bẻ bánh” (Cv 2:42), tức là trong bữa ăn chung theo phong tục Do Thái, tuy nhiên, các Kitô hữu xen vào đó phần phụng sự Thánh Thể (tc. 1 Cor 11:16; 11:24; Lk 22:19; 24-25); thứ bốn, hiệp thông trong lời cầu nguyện (Cv 2:42); 46-47). Lời Thiên Chúa, Nhiệm Tích Thánh Thể, cầu nguyện và bác ái huynh đệ tạo thành bốn cột trụ (xây dựng ngôi nhà) để cộng đồng sinh tồn, phát triển và trở nên vững mạnh.
Về phần mình, các tông đồ “hiên ngang can đảm làm chứng Chúa Giêsu phục sinh” (Cv 4:33). Các ngài làm “nhiều dấu lạ” (Cv 5:12), như các ngài đã xin khi cầu nguyện tại căn phòng trên lầu: “Hãy đưa tay chữa lành, và thể hiện những điềm thiêng dấu lạ nhờ thánh danh tôi tớ thánh của Chúa là Chúa Giêsu” (Cv 4:30). Các ngài là những dấu chỉ sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh, mà toàn thể cuộc sống cộng đồng quy chiếu vào Ngài. Như khi vợ chồng Ananias và Sapphira làm bộ đưa tới cho các tông đồ và cộng đồng toàn thể tiền bán tài sản của họ trong khi đó họ giữ lại một phần, Thánh Phêrô coi lỗi lầm đó là tội chống lại Chúa Thánh Linh: “Anh chị đã dối trá đối với Chúa Thánh Linh” (Cv 5:3); “Làm sao anh chị lại đồng lòng với nhau thử thách Thánh Linh của Chúa?” (Cv 5:9). Sự việc đó không phải là trường hợp “(tội) phạm tới Chúa Thánh Linh” theo ý nghĩa mà Phúc Âm dạy (tc. Lc 12:10) và được truyền lại trong các văn bản về luân lý và giáo huấn của Giáo Hội. Trái lại, lỗi lầm của vợ chồng Ananias và Sapphira là một thất bại không giữ tinh thần hiệp nhất của Chúa Thánh Linh trong mối ràng buộc bình an, như Thánh Phaolô nói (tc. Eph 4:3). Bởi thế hành động của vợ chồng Ananias và Sapphira là một việc dối trá khi tuyên xưng cộng đồng Kitô hữu trong bác ái, mà linh hồn họ là Chúa Thánh Linh.
Sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Linh biểu lộ trong việc lựa chọn bảy phó tế, những người “tràn đầy Thánh Linh và khôn ngoan” (Cv 6:3), và đặc biệt nơi ông Stephen “một người đầy lòng tin và đầy Thánh Linh” (Cv 6:5). Ngay sau đó ông Stephen bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu Kitô cách say sưa, nồng nàn và hiên ngang, làm “nhiều dấu lạ lớn lao trong dân” (Cv 6:8). Nhiều người Do Thái căm giận và ghen ghét khiến họ đứng lên chống lại ông Stephen, ông vẫn hiên ngang rao giảng và không ngần ngại lên án những người chống lại ông là những kẻ theo vết chân cha ông họ trong việc “chống lại Chúa Thánh Linh” (Cv 7:51). Vì thế ông Stephen đã thanh thản đi nhận lãnh phước tử đạo, như Công Vụ ghi: “Ông Stephen, tràn đầy Chúa Thánh Linh, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh quang Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa ...” (Cv 7:55). Với thái độ đó ngài bị ném đá chết. Vì thế Giáo Hội sơ khai, dưới hành động của Chúa Thánh Linh, đã thêm phước tử đạo vào đời sống cộng đồng.
Cộng đồng Jerusalem gồm có những người nam và nữ gốc Do Thái, như chính các tông đồ và Mẹ Maria. Chúng ta không thể quên sự kiện này, mặc dầu về sau các Kitô hữu Do Thái, quy tụ chung quanh Thánh Giacôbê khi Thánh Phêrô đi Roma, bị phân tán và dần dần biến mất. Tuy nhiên, Sách Công Vụ hiển nhiên đã khơi dậy trong chúng ta lòng kính trọng và biết ơn “những anh chị em” xa xưa đó, vì họ thuộc về những người Jerusalem đã tỏ lòng ưu ái các tông đồ (tc. Cv 2:47) những người “làm chứng sự phục sinh của Chúa Giêsu” (Cv 4:33). Chúng ta cũng không thể quên sau khi ông Stephen bị ném đá chết và ông Phaolô trở lại, Giáo Hội phát triển từ cộng đồng tiên khởi này “được bình an và phát triển khắp Judea, Galilee và Samaria; và bước đi trong sự kính sợ Chúa và trong niềm an ủi của Chúa Thánh Linh, Giáo Hội phát triển gấp bội” (Cv 9:31).
Như thế những chương đầu Sách Tông Đồ Công Vụ làm chứng việc hoàn tất lời Chúa Giêsu đã hứa với các tông đồ tại căn phòng trên lầu trước khi Ngài chịu khổ nạn: “Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng An Ủi, Thánh linh chân lý, để ở với anh em luôn mãi” (Jn 14:16-17). Như chúng ta đã thấy trước kia, “Đấng An Ủi” (tiếng Hy Lạp là Parákletos) cũng có nghĩa Đấng Bào Chữa. Là Đấng Bào Chữa và Đấng An Ủi, Chúa Thánh Linh được mạc khải hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội từ khởi đầu trong lòng Do Thái giáo. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ thấy cũng Chúa Thánh Linh ấy sẽ hướng dẫn các tông đồ và những cộng sự viên của các ngài làm lan tràn ra khắp bốn phương đều cảm nghiệm được Lễ Hiện Xuống.
Buổi gặp chung ngày 29 tháng Mười Một, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Lễ Hiện Xuống nơi Dân Ngoại
Chúa Thánh Linh ngự đến trong ngày Lễ Hiện Xuống làm viên mãn “mầu nhiệm Vượt Qua” của Chúa Kitô khi Ngài ra đi qua khổ hình thập giá. Lễ Hiện Xuống hoàn tất việc Thiên Chúa tự khải trong Chúa Con Nhập Thể. Như thế “hoàn tất trọn vẹn sứ mệnh của Đấng Thiên Sai,” nghĩa là của Đấng đã nhận được sự sung mãn Chúa Thánh Linh cho Dân Được Tuyển Chọn của Thiên Chúa và cho toàn thể nhân loại. “Đấng Thiên Sai” đích thực sự là “Chúa Kitô, nghĩa là ‘Đấng Được Xức Dầu,” và trong lịch sử ơn cứu độ thì từ ngữ này có nghĩa đầy đủ là ‘Đấng Được Xức Dầu Tấn Phong bằng Chúa Thánh Linh.’ Đây là truyền thống tiên tri thời Cựu Ước. Theo truyền thống này, ông Simon Phêrô nói tại nhà ông Cornelius: ‘Qúi vị chắc hẳn đã nghe về những việc xảy ra ngày gần đây ở Judea ... sau khi nhận phép rửa mà ông Gioan rao giảng: Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong Chúa Giêsu Nazareth bằng Chúa Thánh Linh và quyền năng như thế nào” (Cv 10:37 f.) (DViv 15). Tiếp theo, thánh Phêrô tóm lược câu chuyện Phúc Âm, mà cũng là kinh Tin Kính giản lược, làm chứng về Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và đã phục sinh, Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại, theo đúng “những lời đã tiên tri” (Cv 10:43).
Một mặt, Thánh Phêrô nối kết việc Chúa Thánh Linh ngự xuống với truyền thống Cựu Ước. Mặt khác, ngài biết và loan báo một tiến trình mới đã bắt đầu trong ngày Lễ Hiện Xuống và sẽ kéo dài mãi qua nhiều thế kỷ, đưa tới việc kiện toàn lịch sử ơn cứu độ. Những giai đoạn đầu của tiến trình này được mô tả trong Công Vụ Tông Đồ. Chính thánh Phêrô tham gia giai đoạn quyết định của tiến trình những người ngoại giáo đầu tiên gia nhập Giáo Hội, dưới ảnh hưởng hiển nhiên của Chúa Thánh Linh Đấng hướng dẫn việc làm của các tông đồ. Trường hợp này là viên sĩ quan bách quân Roma đồn trú tại Caesarea. Thánh Phêrô đã hướng dẫn ông ta vào cộng đồng những người chịu Phép Rửa. Thánh Phêrô đã ý thức được tầm quan trọng quyết định trong việc nhận Cornelius vào Giáo Hội mặc dầu rõ ràng là không phù hợp với những tập tục tôn giáo (Do Thái giáo) thời đó. Nhưng đồng thời ngài biết chắc chắn rằng Thiên Chúa muốn điều đó. Khi vào nhà viên sĩ quan bách quân, ông Phêrô “thấy nhiều người tụ họp; và ông nói với họ: ‘Quí vị thừa biết giao du với hoặc thăm viếng bất cứ người nào khác chủng tộc là điều hết sức cấm kị đối với người Do Thái; nhưng Thiên Chúa đã cho tôi thấy không được gọi bất cứ người nào là hạ tiện hoặc ô uế” (Cv 10:28).
Đó là thời điểm vĩ đại trong lịch sử cứu độ. Quyết định của Thánh Phêrô làm cho Giáo Hội sơ khai thoát khỏi những hạn chế tôn giáo mang mầu sắc dân tộc của Jerusalem và Do Thái giáo. Ngài trở nên công cụ của Chúa Thánh Linh và theo lệnh Chúa Giêsu ngài đã đem Phúc Âm đến cho muôn dân (tc. Mt 28:19). Truyền thống tiên tri về hoàn vũ tính của nước Thiên Chúa trong thế giới nhờ đó được hoàn thành trọn vẹn và cao cả hơn, vượt xa quan điểm dựa theo lề luật cũ của người Do Thái. Thánh Phêrô mở đường cho luật mới, trong đó Tin Mừng cứu độ phải đến được với muôn dân không phân biệt sắc tộc, văn hóa hoặc tôn giáo, ngõ hầu tất cả mọi người được hưởng thành quả ơn cứu độ.
Sách Công Vụ Tông Đồ có đoạn tường thuật chi tiết biến cố này. Trong phần thứ nhất chúng ta đã hiểu rõ tiến trình nội tâm giúp Thánh Phêrô biết cách tiến hành. Sách Công Vụ ghi: Ông Phêrô, dừng lại vài ngày tại nhà “ông Simon làm nghề thợ nhuộm” (Cv 10:6) ở Joppa, “đi lên căn gác để cầu nguyện, vào khoảng giờ thứ sáu (khoảng 12g trưa). Và ngài cảm thấy đói bụng và muốn có chút gì ăn; nhưng trong khi người ta đang chuẩn bị bữa ăn, ngài xuất thần và thấy trời mở ra, rồi vật gì đó thả xuống, tựa như mảnh vải lớn, buộc (túm) bốn góc thả xuống đất. Trong đó có đủ mọi thứ súc vật, rắn rết và chim trời. Khi đó có tiếng nói bảo ngài, ‘Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn.’ Nhưng ông Phêrô nói, ‘Lạy Chúa, con không ăn đâu; vì con không khi nào ăn thứ gì hèn hạ hoặc ô uế.’ Và tiếng nói lại nói với ngài lần thứ hai, ‘Thứ gì Thiên Chúa đã tẩy sạch, ngươi không được gọi là hèn dơ.’ Diễn biến này xảy ra ba lần, rồi vật đó lại được rút lên trời” (Cv 10:9-16).
Có thể nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn và dưới linh quang kinh nghiệm có được trong bài giảng trước, thị kiến trên đây làm cho Thánh Phêrô nhớ lại những thắc mắc và nghi ngờ xuất hiện trong trí ngài. Hiện tượng đó nối kết với việc nhớ lại lời giảng dạy và lệnh truyền của Chúa Kitô về rao giảng Tin Mừng khắp thế giới. Giây phút ngưng nghỉ để suy niệm trên sân thượng ở Joppa, nhìn xuống Địa Trung Hải, đã chuẩn bị Thánh Phêrô về giai đoạn quyết định mà ngài phải thực hiện!
Dĩ nhiên, “ông Phêrô bối rối về ý nghĩa của thị kiến” (Cv 10:17). Rồi trong khi ngài “đang suy nghĩ về thị kiến thì Thánh Linh nói với ngài, ‘Kìa, ba người đang kiếm ngươi đó. Hãy đứng lên, đi xuống, đừng ngại đi theo họ: vì Ta đã phái họ tới” (Cv 10:19-20). Như thế, chính Chúa Thánh Linh đã chuẩn bị Thánh Phêrô thi hành nhiệm vụ mới này. Chúa Thánh Linh hoạt động cách đặc biệt qua thị kiến trong đó Ngài thúc đẩy thánh Phêrô suy nghĩ (phản ánh), sắp đặt việc gặp ba người đó, hai người tôi tớ và một binh sĩ nhiệt thành (tc. Cv 10:7), được phái từ Caesarea đến mời ngài. Khi tiến trình nội tâm đã hoàn tất, Chúa Thánh Linh ra lệnh rõ ràng cho tông đồ Phêrô. Vâng lệnh, ngài quyết định đi Caesarea tới nhà ông Cornelius. Ngài được viên sĩ quan bách quân và toàn thể mọi người trong nhà đón tiếp cách kính trọng dành cho vị sứ giả thần linh. Thánh Phêrô nhớ lại thị kiến và hỏi những người hiện diện: “Tại sao quí vị cho tìm tôi tới?” (Cv 10:29).
Ông Cornelius là “một người công chính và kính sợ Thiên Chúa” (Cv 10:22) đã giải thích việc ông nhận được ý kiến mời ngài tới mà lời mời đó cũng do Thánh Linh soi sáng. Và ông Cornelius kết luận: “Vì thế bây giờ tất cả chúng tôi hiện diện tại đây trước mắt Thiên Chúa, để nghe mọi điều ngài đã được Chúa truyền” (Cv 10:33).
Như được ghi trong Công Vụ Tông Đồ, lời đáp của Thánh Phêrô mang trọn đầy ý nghĩa thần học và truyền giáo. Chúng ta đọc: “Ông Phêrô nói: ‘Đúng vậy, tôi biết chắc Thiên Chúa không thiên vị bất cứ ai, nhưng dù bất cứ dân tộc nào những người kính sợ Ngài và ăn ở ngay lành đều được Ngài chấp nhận. Quí vị biết rõ biến cố đã xảy ra khắp miền Judea, khởi đầu từ miền Galilee, sau phép rửa ông Gioan rao giảng. Quí vị cũng biết rõ Chúa Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Linh và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài. Ngài thi ân giáng phúc bất cứ nơi nào Ngài đặt chân tới, chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ khống chế, vì Thiên Chúa ở với Ngài. Và chúng tôi chứng kiến tất cả mọi việc Ngài đã làm cả ở miền quê Do Thái và ở Jerusalem. Họ giết Ngài bằng cách đóng đinh vào thập giá; nhưng đến ngày thứ ba Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại và cho Ngài hiển lộ tỏ tường; không phải với tất cả mọi người nhưng với chúng tôi những người đã được Thiên Chúa chọn làm chứng nhân, chúng tôi là những người đã ăn và uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi rao giảng cho mọi người và làm chứng Ngài là Đấng đã được Thiên Chúa đặt làm thẩm phán xét xử người sống kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều nói về Ngài và làm chứng rằng bất cứ ai tin vào Ngài thì nhờ danh Ngài mà được tha thứ tội lỗi’” (Cv 10:34-43).
Thật là đúng khi trích lại đầy đủ văn bản này, vì đó là phần tóm lược đầy đủ việc rao giảng của các tông đồ và tổng hợp giáo huấn (giáo lý) đầu tiên mà về sau có được hình thức rõ ràng trong kinh Tin Kính. Phần tóm lược này là việc rao giảng và huấn giáo tại Jerusalem vào ngày Lễ Hiện Xuống, được nhắc lại ở Caesarea trong nhà ông Cornelius, một dân ngoại. Có thể nói, như chính Thánh Phêrô đã nhận xét, sự việc tại căn phòng trên lầu được canh tân trong Lễ Hiện Xuống của dân ngoại, tương tự Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem (tc. Cv 10:47; 11:15; 15:8). Sách Công Vụ tường thuật tiếp: “trong khi ông Phêrô đang nói điều này thì Chúa Thánh Linh ngự xuống trên tất cả mọi người nghe lời (ông Phêrô) giảng. Và các tín hữu đã cắt bì đi theo ông Phêrô đều ngạc nhiên, vì ơn Chúa Thánh Linh đã được tuôn đổ xuống cho cả dân ngoại nữa” (Cv 10:44-45).
“Khi đó ông Phêrô tuyên bố, ‘Người nào có thể ngăn cấm việc làm Phép Rửa cho những người này đã nhận được Chúa Thánh Linh y như chúng ta đã được?” (Cv 10:47). Ngài nói lời này trước mặt “các tín hữu trong số những người đã được cắt bì,” tức là những Kitô hữu gốc Do Thái giáo, những người này ngạc nhiên vì họ đã nghe các thân nhân và bạn hữu của ông Cornelius “nói tiếng lạ và chúc tụng Thiên Chúa” (tc. Cv 10:46), y như đã xảy ra tại Jerusalem vào ngày Lễ Hiện Xuống thứ nhất. Sự việc xảy ra tại nhà ông Cornelius có nhiều ý nghĩa quan trọng: thật vậy, sự việc đó chẳng khác gì Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem xảy ra trong hoàn cảnh khác biệt.
Kết cuộc ông Phêrô “truyền cho những người đó được chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Cv 10:48). Như thế chúng ta đã có những người ngoại giáo đầu tiên chịu Phép Rửa. Như vậy do quyền tông đồ và ơn Chúa Thánh Linh soi dẫn, Thánh Phêrô đã khởi đầu truyền bá Phúc Âm và phát triển Giáo Hội bên ngoài biên giới Israel.
Chúa Thánh Linh, Đấng ngự xuống trên các tông đồ vì công nghiệp hy sinh cứu chuộc của Chúa Kitô, đã minh xác rằng giá trị cứu độ của hy lễ này sẽ trải rộng cho toàn thể nhân loại. Thánh Phêrô đã nghe tiếng nói trong lòng: “Điều Thiên Chúa đã thanh tẩy, ngươi không được gọi là hèn dơ” (Cv 10:15). Ngài biết rõ việc thanh tẩy này xảy ra nhờ máu Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng “nhờ Thánh Linh hằng hữu đã tự hiến mình vẹn toàn lên Thiên Chúa” (Dt 9:14a). Chúng ta được bảo đảm rằng máu của Con Thiên Chúa “sẽ thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc làm đưa tới tử vong để phục vụ Thiên Chúa hằng hữu.” (Dt 9:14b). Thánh Phêrô còn hiểu rõ ràng hơn là đã tới những thời điểm mà ngay cả đến những hiến lễ dân ngoại dâng cũng đẹp lòng Đức Yahweh như các ngôn sứ đã tiên báo (tc. Is 56:7; Mal 1:11; và Rom 15:16; Phil 4:18; 1 Pet 2:5). Vì thế ông Phêrô nói cách ý thức với viên sĩ quan bách quân Cornelius: “Thật vậy tôi đã thấy Thiên Chúa không thiên vị.” Lời Thiên Chúa mà người Do Thái đã học từ sách Đệ Nhị Luật vang lên trong những lời Thánh Phêrô: “Chúa Thiên Chúa của anh em là Thần của mọi thần và Chúa các chúa, vĩ đại, toàn năng, và Thiên Chúa đáng kính sợ, là Đấng không thiên vị ...” (Đnl 10:17). Sách Công Vụ Tông Đồ làm chứng Thánh Phêrô là người đầu tiên nắm được ý nghĩa mới của tư tưởng cũ đã du nhập vào giáo huấn của các tông đồ (tc. 1 Pet 1:17; Gal 2:6; Rom 2:11).
Những lời trong Sách Đệ Nhị Luật trên đây là căn nguyên bên trong của những lời đẹp đẽ được nói với ông Cornelius về tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa: “... bất cứ dân nước nào, người nào kính sợ Ngài và làm điều ngay chính đều được Ngài chấp nhận” (Cv 10:35).
Buổi gặp chung ngày 6 tháng Mười Hai, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh trong Sứ Mệnh Truyền Giáo cho Dân Ngoại
Sau khi Tông Đồ Phêrô cử hành Phép Rửa cho những dân ngoại đầu tiên tại nhà viên sĩ quan bách quân Cornelius ở Caesarea, ngài lưu lại đó vài ngày để đáp lại lời mời của những Kitô hữu tân tòng này (tc. Cv 10:48). Sự kiện này không làm hài lòng anh em ở Jerusalem, bởi thế họ chỉ trích Thánh Phêrô khi ngài trở về (tc. Cv 11:3). Thay vì bào chữa, ngài đã “giải thích cho họ những sự việc đã xảy ra” (Cv 11:4), “để các Kitô hữu gốc Do Thái giáo hiểu rõ tầm quan trọng của sự kiện dân ngoại cũng đã nhận được lời Thiên Chúa” (Cv 11:1).
Kế đó Tông Đồ Phêrô nói cho họ biết về thị kiến ngài thấy tại Joppa, lời mời của ông Cornelius, và Chúa Thánh Linh thúc đẩy trong lòng phá tan sự lưỡng lự của ngài (tc. Cv 11:12), và sau cùng là Chúa Thánh Linh ngự xuống trên những người trong nhà viên sĩ quan bách quân (tc. Cv 11:16). Ngài kết luận lời tường thuật như sau: “Tôi nhớ lời Chúa nói như sau: ‘Gioan làm phép rửa bằng nước, nhưng anh em sẽ được rửa bằng (Chúa) Thánh Linh.’ Nếu khi đó Thiên Chúa ban cùng đặc ân đó cho họ như Ngài đã ban cho chúng ta khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám chống lại Thiên Chúa?” (Cv 11:16-17).
Theo Thánh Phêrô, sự kiện này là một chất vấn nghiêm trọng về một trường hợp ngoại lệ và bị coi là bất hợp pháp bởi những Kitô hữu gốc Do Thái giáo tại Jerusalem, chứ không phải sự kiện ngài được ân cần tiếp đón của người ngoại đã tòng giáo. Thật là thú vị ghi nhận hiệu quả những lời Thánh Phêrô, vì chúng ta đọc trong Công Vụ Tông Đồ: “khi mọi người nghe điều này, họ đều nín thinh. Và họ tôn vinh Thiên Chúa ‘Như thế dân ngoại cũng đã được Thiên Chúa ban ơn cải hối để được sự sống’” (Cv 11:18).
Trường hợp trên đây là sự vượt thắng nỗi âu lo đầu tiên đối với khuynh hướng đặc thù về xã hội và tôn giáo đe dọa Giáo Hội sơ khai vì có nguồn gốc từ cộng đồng Do Thái ở Jerusalem. Thánh Tông Đồ Phaolô, được Thánh Phêrô hỗ trợ, cũng đạt được ưu thắng khác vẻ vang hơn nữa. Chúng ta sẽ bàn về ưu thắng này sau.
Chúng ta tạm ngưng để tìm hiểu Thánh Phêrô tiếp tục đường lối đã khởi đầu bằng Phép Rửa tại nhà ông Cornelius như thế nào. Lần nữa biến cố trên được coi là chính Chúa Thánh Linh hướng dẫn các tông đồ theo chiều hướng này.
Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết những người tòng giáo tại Jerusalem, “đã bị phân tán vì cuộc bách hại nổi lên chống ông Stephen,” tiếp tục công việc rao giảng tin mừng bất cứ nơi nào họ tới. Nhưng “họ chỉ rao giảng tin mừng cho người Do Thái” (Cv 11:19). Tuy nhiên một số người là công dân Cyprus và Cyrene, khi tới Antioch, thủ đô Syria, họ đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu cho những người không phải Do Thái. “Và bàn tay quyền năng Chúa ở với họ, và một số đông tin tưởng trở lại với Chúa. Hội Thánh tại Jerusalem nghe biết tin tức về việc này, và các ngài phái ông Barnabas đến Antioch” (Cv 11:21-22). Sự đi xem xét này do cộng đồng tiên khởi quyết định và dành quyền cảnh giác với các cộng đồng giáo hội khác (tc. Cv 8:14; 11:1; Gal 2:2).
“Ông Barnabas đi Antioch. Khi tới nơi và nhìn thấy ân sủng Thiên Chúa, ông hân hoan; và ông khuyến khích mọi người kiên trì trung tín với Chúa, vì ông là người tốt lành, đầy ơn Chúa Thánh Linh và đức tin tràn đầy. Và một đoàn đông đảo đã tin theo Chúa. Vì thế ông Barnabas đi Tarsus tìm ông Phaolô; và (khi đã tìm được ông Phaolô, ông) đưa ông Phaolô đến Antioch. Suốt một năm, hai ông tiếp xúc với Giáo Hội và dạy nhiều người, và tại Antioch lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu” (Cv 11:23-26).
Giai đoạn này là thời điểm quyết định khác nữa đối với đức tin dựa trên giao ước trong Chúa Kitô, đã chịu đóng đinh thập giá và phục sinh. Hơn nữa, danh xưng mới “Kitô hữu” biểu lộ sức mạnh của mối dây liên kết các thành viên cộng đồng với nhau. “Lễ Hiện Xuống của dân ngoại” làm nổi bật lời rao giảng và cách cư xử của thánh Phêrô đem lại việc hoàn thành lời Chúa Giêsu đã nói trước về Chúa Thánh Linh: “Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết” (Jn 16:14). Nhờ ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh, việc tự minh xác của Kitô giáo (được) thể hiện qua sự tăng thêm các bằng chứng về việc tôn vinh “Chúa Giêsu.”
Theo tài liệu về những liên hệ giữa Giáo Hội tại Antioch và tại Jerusalem, ông Saul (Phaolô) thành Tarsus có mặt tại hiện trường khi được ông Barnabas đưa tới Antioch. Công Vụ Tông Đồ cho biết “ròng rã một năm, hai ông lưu lại cộng đoàn Antioch và giảng dạy nhiều người” (Cv 11:26). Sau đó, một hôm “khi cộng đoàn đang thi hành việc phụng thờ Chúa và ăn chay, (chợt có tiếng) Chúa Thánh Linh nói: ‘Hãy dành riêng Phaolô và Barnabas cho công việc Ta gọi hai người đó thi hành.’ Rồi sau khi ăn chay và cầu nguyện mọi người đặt tay trên hai ông và phái hai ông đi. Như thế, được Chúa Thánh Linh phái đi, hai ông xuống Seleucia, và đáp tầu đi Cyprus” (Cv 13:2-4), quê hương ông Barnabas (tc. Cv 4:36). Chúa Thánh Linh đã sắp đặt ơn gọi và sứ mệnh của ông Phaolô đồng hành với ông Barnabas để mở đầu một giai đoạn phát triển mới trong đời sống Giáo Hội sơ khai.
Chúng ta đều biết chuyện ông Saul thành Tarsus quy phục và tầm quan trọng của việc này đối với công cuộc rao giảng tin mừng trong thế giới xưa, chúng ta cũng nhìn nhận mọi nỗ lực và nhiệt huyết trong tâm hồn dũng mãnh của ngài, khi Saul trở thành Phaolô, vị Tông Đồ muôn dân (tc. Cv 13:9).
Ở đây chúng ta chỉ nhắc lại những lời đã được môn đệ Ananias nói với ông Saul ở Damacus, khi Chúa truyền cho ông (Ananias) đi tìm người đàn áp các Kitô hữu, lúc này đã biến đổi sau khi ông gặp Chúa Kitô và đang ở “tại nhà ông Judas, ở phố Trực Đạo” (Cv 9:10).
Theo Công Vụ Tông Đồ: “Ông Ananias ra đi và vào nhà đó. Sau khi đặt tay trên ông Saul, ông Ananias nói, ‘Huynh đệ Saul, Chúa Giêsu Đấng hiện ra với huynh đệ trên đường tới đây, đã phái tôi đến để huynh đệ được sáng mắt và được tràn đầy Chúa Thánh Linh’” (Cv 9:17). Ông Saul được sáng mắt và lập tức bắt đầu “chứng minh Chúa Giêsu là Chúa Kitô” (Cv 9:22) tại các hội đường trước tiên tại Damacus rồi ở Jerusalem. Tại Jerusalem, do lời ông Barnabas giới thiệu, ông Phaolô tới lui, “hiên ngang rao giảng danh Chúa” và “tranh luận chống lại những người phái Hellen (người Do Thái là công dân và theo văn hóa Hy Lạp)” (Cv 9:29). Những người Hy Lạp này nói tiếng Do Thái, chống đối dữ dội mọi người rao giảng về Chúa Kitô (tc. Cv 6:9 f; 7:58; 9:1; 21:27; 24:19), đặc biệt là chống lại ông Saul (Phaolô) cách ác liệt, tới mức muốn giết ngài (tc. Cv 9:29). “Và khi anh em biết điều này, đã đưa ông (Phaolô) xuống Caesarea để ông đi Tarsus” (Cv 9:30). Cũng chính tại đó ông Barnabas đến tìm ông Phaolô để đem ông tới Antioch (tc. Cv 11:25-26).
Chúng ta biết việc phát triển Giáo Hội tại Antioch phần lớn nhờ sự đóng góp tích cực của những người Hy Lạp đã trở lại theo Phúc Âm (tc. Cv 11:20). Sự kiện đó đã làm cho Hội Thánh tại Jerusalem lưu ý. Tuy nhiên, ngay cả sau khi ông Barnabas xem xét sự việc, vẫn còn một vài hoang mang về thủ tục cần được theo khi nhận người ngoại vào Giáo Hội mà không tuân theo luật Moses. Tuy nhiên vào một dịp nào đó “một số người từ Judea đến (Antioch) và dậy các anh em tại đó, ‘Nếu anh em không cắt bì theo luật Moses, anh em không thể được cứu độ.’ Và khi đó ông Phaolô và Barnabas không đồng ý chút nào và đã tranh luận với những người đó, ông Phaolô và Barnabas và một số người khác nữa được chỉ định lên Jerusalem hỏi các tông đồ và trưởng lão về vấn đề này” (Cv 15:1-2).
Sự kiện trên là một vấn đề nền tảng đề cập tới tâm cốt của Kitô giáo, là một giáo thuyết và là cuộc đời đều phải căn cứ trên niềm tin vào Chúa Kitô mà niềm tin đó độc đáo và độc lập với Do Thái giáo (Judaism).
Vấn đề thu nhận dân ngoại vào Giáo Hội đã được giải quyết tại “Công Đồng Jerusalem” (như thường được gọi) qua các tông đồ và trưởng lão dưới tác động của Chúa Thánh Linh. Sách Công Vụ cho biết “sau khi đã bàn thảo lâu dài, ông Phêrô đứng lên nói với mọi người, ‘Thưa quí huynh đệ, quí huynh đệ biết trong những ngày đầu Thiên Chúa đã chọn giữa huynh đệ, do chính lời tôi các người ngoại giáo đã nghe Tin Mừng và tin tưởng. Và Thiên Chúa, Đấng biết rõ lòng dạ mọi người, làm chứng cho họ, ban cho họ Chúa Thánh Linh y như Ngài đã ban cho chúng ta; và Ngài đã không phân biệt giữa chúng ta và những người đó, nhưng thanh tẩy trái tim họ bằng đức tin” (Cv 15:7-9).
Thời điểm đó làm nổi bật lên ý thức “Lễ Hiện Xuống nơi dân ngoại” đối với cộng đồng mẹ tại Jerusalem, nơi mà các đại diện cao cấp nhất của Giáo Hội tụ họp. Toàn thể cộng đồng đều cảm thấy đang sống và hoạt động “được tràn đầy ơn an ủi của Chúa Thánh Linh” (Cv 9:31). Cộng đồng biết không phải chỉ các tông đồ mà những huynh đệ khác đã chọn quyết định này và thực hành dưới sự tác động của Chúa Thánh Linh, chẳng hạn ông Stephen (Cv 6:5; 7:55), Barnabas và Saul (Cv 13:2,4,9).
Chẳng bao lâu chúng ta được biết thêm sự kiện xảy ra tại Ephesus, nơi mà ông Saul đã trở thành Phaolô, lúc bấy giờ đã hiện diện. Sách Công Vụ kể lại như sau: “Trong khi ông Apollos (một nhà rao giảng Tin Mừng) ở Corinth thì ông Phaolô đi qua miền bắc đến Ephesus. Tại đây ông Phaolô gặp các môn đệ. Và ông hỏi họ ‘Anh em có nhận được Chúa Thánh Linh khi anh em tin chưa?” Và họ nói, ‘Không, chúng tôi chưa hề nghe nói có Chúa Thánh Linh ...’ Khi nghe điều này, các môn đệ tại đó chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi ông Phaolô đặt tay trên họ, Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên họ, và họ nói những ngôn ngữ xa lạ và những điều tiên tri” (Cv 19:1-2, 5-6). Vì thế cộng đồng Jerusalem nghe biết thiên sử ca này của Chúa Thánh Linh mở ra qua những người được ân ban các đặc sủng và thừa tác vụ tông đồ. Tuy nhiên, Công Đồng thứ nhất tại Jerusalem tiêu biểu một sự kiện có tính cách cơ chế được nhìn nhận có tính cách quyết định đối với việc rao giảng tin mừng cho toàn thế giới, trong sự liên kết mật thiết giữa Công Đồng được Thánh Phêrô và Chúa Thánh Linh chủ trì.
Các tông đồ long trọng thông báo kết luận đạt được và quyết định đã chọn: “Chúa Thánh Linh và chúng tôi cho là tốt ...” (Cv 15:28). Kết luận này cho thấy các ngài hoàn toàn ý thức hành động dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh chân lý mà Chúa Kitô đã hứa với các ngài (tc. Jn 14:16-17). Các ngài cũng nhận thức được rằng sở dĩ các ngài quyết định như thế và sự chính xác của quyết định được đưa ra là do Chúa Thánh Linh. Chính là Đấng An Ủi, Thánh Linh chân lý, bảo đảm rằng Lễ Hiện Xuống tại Jerusalem phải mở rộng thành “Lễ Hiện Xuống của dân ngoại.” Như thế giao ước mới của Thiên Chúa với nhân loại “trong máu Chúa Kitô” (tc. Lc 22:20) được mở ra cho mọi người thuộc muôn nước khắp hoàn vũ.
Buổi gặp chung ngày 13 tháng Mười Hai, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Thành Quả Lễ Hiện Xuống
Những phần suy niệm trước về Chúa Thánh Linh nối kết cách đặc biệt với biến cố Lễ Hiện Xuống. Chúng ta thấy tiến trình khởi đầu từ ngày các tông đồ và môn đệ nhận được “Phép Rửa bằng Chúa Thánh Linh” khi đang hội họp trong căn phòng trên lầu ở Jerusalem (tc. Cv 2:4). Qua nhiều giai đoạn đã mô tả trong Sách Công Vụ Tông Đồ, biến cố Lễ Hiện Xuống mạc khải hoạt động của Chúa Thánh Linh là “Đấng An Ủi khác” mà Chúa Giêsu đã hứa (tc. Jn 14:16), Ngài đến để hoàn tất công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Linh vẫn luôn là “Thiên Chúa ẩn mặt”, dẫu vậy các tông đồ vẫn ý thức rõ ràng là chính Chúa Thánh Linh hoạt động trong các ngài và Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Linh hướng dẫn và ban cho các ngài sức mạnh để làm chứng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và phục sinh, cho dù phải tử đạo, như trường hợp phó tế Stephen. Chính Chúa Thánh Linh dạy cho các ngài biết phải tiếp xúc với mọi người như thế nào; và chính Chúa Thánh Linh cũng đã sử dụng các ngài trong việc cải đổi tất cả mọi người rộng mở trái tim tiếp nhận hoạt động của Chúa Thánh Linh. Đa phần những người tham dự đều ở ngoài Israel. Đầu tiên là Cornelius, người chiến binh Roma tại Caesarea. Rồi đến những người khác kế tiếp tại Antioch và những nơi khác. Như thế Lễ Hiện Xuống ở Jerusalem đã dần dần lan tràn đến với muôn dân khắp nơi.
Chúng ta có thể nói: chúng ta đã thấy toàn thể sự việc mô tả trong Sách Công Vụ Tông Đồ là phần khởi đầu của kết quả lời Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô vào dịp lưới được nhiều cá cách lạ lùng: “Đừng sợ, từ nay (các) anh sẽ thu phục người ta” (Lc 5:10; và tc. Jn 21:11, 15-17).
Hơn nữa, trong lúc xuất thần tại Joppa (tc. Cv 11:5), Thánh Phêrô đã nhận thức được sự kiện đa số khi ngài thấy tấm khăn lớn từ trời xuống phía ngài và được kéo lên trời. Trong đó ngài thấy “súc vật bốn chân, thú rừng, rắn rết và chim trời” trong khi đó một tiếng nói bảo ngài: ‘Hãy đứng dậy, làm thịt mà ăn’” (Cv 11:6-7). Sự đông đúc đó hẳn tượng trưng rõ ràng thành quả dồi dào của tác vụ tông đồ mà Chúa Thánh Linh đã tạo ra qua việc làm của Thánh Phêrô và các tông đồ khác, như Chúa Giêsu đã từng nói và vào trước ngày khổ nạn Ngài lại nói thêm: “Quả thực, quả thực, Thầy nói cho anh em biết, người nào tin vào Thầy cũng sẽ làm những việc Thầy đã làm; và người đó sẽ làm những việc lớn lao hơn nữa, vì Thầy về với Chúa Cha” (Jn 14:12). Hiển nhiên thành quả dồi dào đó không phải chỉ do ngôn từ loài người của các tông đồ tạo ra, nhưng là do Chúa Thánh Linh hành động trực tiếp trong tâm thức người nghe. Toàn thể việc sinh hoa kết trái tinh thần của sứ mệnh các tông đồ đều do Chúa Thánh Linh mà có.
Sách Công Vụ ghi lại việc tăng trưởng liên tục số người tin và gia nhập Hội Thánh, đôi khi ghi rõ con số, và những lần khác chỉ nói tổng quát mà thôi.
Về những sự việc xảy ra vào ngày Lễ Hiện Xuống ở Jerusalem, Sách Công Vụ ghi: “ngày hôm đó có khoảng ba ngàn người tòng giáo” (Cv 2:41). Sau khi ông Phêrô giảng lần thứ hai “nhiều người nghe lời giảng đã tin; và con số lên tới khoảng năm ngàn người đàn ông” (Cv 4:4).
Thánh Luca nhấn mạnh và ghi rõ con số các tín hữu gia tăng lần này, về sau ngài cũng nhấn mạnh, nhưng không nói rõ con số: “Và lời Thiên Chúa đã lan rộng; và số môn đệ gia tăng rất nhiều tại Jerusalem, và rất nhiều tư tế đón nhận đức tin” (Cv 6:7).
Hiển nhiên điều quan trọng nhất không phải là con số, mà là việc tòng giáo tập thể. Thánh Luca nhấn mạnh mối liên hệ của người tân tòng với Thiên Chúa: “Và Thiên Chúa ngày ngày làm tăng thêm số người được cứu độ” (Cv 2:47). “Và càng ngày càng thêm nhiều người tin theo Chúa, cả nam và nữ” (Cv 5:14). Tuy nhiên, con số có tầm quan trọng riêng của nó, vì được coi là bằng chứng hoặc dấu chỉ sự kết quả từ Thiên Chúa mà ra. Vì thế Thánh Luca lại cho chúng ta biết “số môn đệ gia tăng” (tc. Cv 6:1) là nguyên nhân đề cử bảy phó tế. Thánh Luca cho biết thêm: “Giáo hội ... ngày càng thêm đông” (Cv 9:31). Trong một văn bản khác ngài cho chúng ta biết “một số đông đã tin theo Chúa” (Cv 11:24), và “Các Giáo Hội (địa phương) được tăng cường đức tin và ngày ngày tăng thêm tín hữu” (Cv 16:5).
Từ sự gia tăng về số lượng và tinh thần này, Chúa Thánh Linh chứng tỏ chính Ngài là Đấng An Ủi mà Chúa Kitô đã loan báo. Thánh Luca nói “Giáo Hội ... được Chúa Thánh Linh nâng đỡ” (Cv 9:31). Niềm an ủi và trợ lực này không bỏ rơi những người làm chứng về Chúa Kitô và những người bị cầm tù vì đức tin giữa những đàn áp và khó khăn của việc rao giảng tin mừng. Như trường hợp ông Phaolô và Barnabas bị đàn áp và trục xuất khỏi Antioch thuộc Pisidia. Sự kiện này không tước bỏ lòng nhiệt thành tông đồ và hăng say của hai ông; trái lại, “các ông giũ bụi chân, và đi tới Iconium. Và các môn đệ hân hoan và tràn đầy ơn Chúa Thánh Linh” (Cv 13:51-52).
Niềm vui do Chúa Thánh Linh ban đã tăng cường sức mạnh cho các tông đồ trong những gian nan thử thách, để các ngài can đảm hiên ngang tiếp tục đem thông điệp cứu độ của Chúa Kitô tới khắp nơi.
Như thế, từ chính ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh đã được mạc khải là nguồn sức mạnh nội tại (ơn dũng cảm). Đồng thời Ngài giúp chọn lựa đúng (ơn chỉ bảo), đặc biệt là về những vấn đề có tính cách quyết định quan trọng, như câu hỏi về Phép Rửa cho viên sĩ quan bách quân Cornelius, người ngoại giáo đầu tiên mà thánh Phêrô nhận vào Giáo Hội, hoặc tại Công Đồng Jerusalem, khi các điều kiện được ấn định cho việc nhận tân tòng gốc ngoại giáo.
Các dấu lạ nói tới trong những phần suy niệm trước cũng là hoa trái của Lễ Hiện Xuống. Những dấu lạ đó đi theo hoạt động của các tông đồ, mà Sách Công Vụ tường thuật nhiều lần: “Các tông đồ đã làm nhiều dấu lạ trong dân chúng” (Cv 5:12). Như khi Chúa Kitô giảng dạy, những dấu lạ kèm theo nhắm mục đích minh chứng chân lý của thông điệp cứu độ. Sự kiện này được đề cập rõ ràng như trong trường hợp hoạt động của phó tế Philip: “Đám đông một lòng nghe theo lời ông Philip giảng, khi họ nghe ông nói và chứng kiến những dấu lạ ông làm” (Cv 8:6). Tác giả Công Vụ ghi rõ những dấu lạ đó giải phóng người bị thần dơ dáy ám và chữa lành người bại liệt cùng người què. Rồi tác giả kết luận: “Vì thế trong thành, người ta rất hân hoan vui mừng” (Cv 8:6-8).
Tác giả Sách Công Vụ thấy điều đáng ghi nhận là ông Philip làm những dấu lạ đó tại một thị trấn Samaria (tc. Cv 8:9), miền cư trú của những người, mặc dù cùng dòng giống và tôn giáo với người Do Thái, bị tách biệt khỏi Do Thái vì những nguyên nhân lịch sử và tín điều (tc. Mt 10:5-6; Jn 4:9). Tuy nhiên, những người Samaria cũng trông đợi Đấng Thiên Sai (tc. Jn 4:25). Phó tế Philip, được Thánh Linh hướng dẫn tới đó để rao giảng: Đấng Thiên Sai đã tới rồi. Ông dùng các dấu lạ để xác nhận Tin Mừng. Vì thế điều này giải thích niềm hân hoan vui mừng của dân chúng tại đó.
Sách Công Vụ ghi thêm một chi tiết mà ít ra chúng ta cũng phải nhắc tới, vì điều đó cho thấy các nhà truyền bá Phúc Âm kính trọng Chúa Thánh Linh ra sao.
Trước khi ông Philip tới thị trấn Samaria thì đã có “một người tên Simon trước kia hành nghề ảo thuật lòe dân, nói rằng chính ông ta là một nhân vật quan trọng. Mọi người sang hèn đều nghe theo ông ta ...” (Cv 8:9-10). Lúc này cũng vậy! “Nhưng khi người ta tin lời ông Philip rao giảng Tin Mừng về nước Thiên Chúa và danh Chúa Giêsu Kitô, cả nam và nữ đều lãnh nhận Phép Rửa. Cả đến chính Simon cũng tin, và sau khi đã chịu Phép Rửa ông ta tiếp tục đi theo ông Philip. Sau khi thấy những hiện tượng và phép lạ vĩ đại xảy ra, ông ta kinh ngạc” (Cv 8:12-13).
Khi ở Jerusalem biết “Samaria đã tin theo lời Chúa” nhờ được ông Philip rao giảng, các tông đồ “gởi ông Phêrô và Gioan đến và cầu nguyện để những tân tòng tại Samaria nhận được Chúa Thánh Linh: vì (Chúa Thánh Linh chưa ngự xuống với một người nào trong họ,) họ chỉ mới chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu. Khi đó hai ông đặt tay trên các tân tòng và họ nhận được Chúa Thánh Linh” (Cv 8:14-17).
Khi đó Simon, ước muốn có được khả năng “ban Thánh Linh,” bằng việc đặt tay như các tông đồ cử hành, đã đem tiền biếu các ngài để xin được quyền năng siêu nhiên đó. (Từ đó tên Simon là nguồn gốc của từ ngữ “simony” có nghĩa mua bán sự thánh.) Nhưng thánh Phêrô đáp lại cách bất bình vì mưu mẹo dùng tiền bạc để mua “hồng ân Thiên Chúa,” mà chính đó là Chúa Thánh Linh (Cv 8:20; tc. 2:38; 10:45; 11:47; Lc 11:9-13), và đe dọa Simon bằng hình phạt thần linh.
Ông Phêrô và Gioan trở lại Jerusalem, rao giảng tin mừng tại những làng các ngài đi qua. Nhưng ông Philip đi Gaza, và được Chúa Thánh Linh soi dẫn, ông nhập đoàn với viên quan chức của nữ hoàng Ethiopia trên chiếc xe ngựa đi ngang qua, và “ngài nói với viên chức đó Tin Mừng Chúa Giêsu” (Cv 8:25-26, 27, 35). Tiếp theo là viên chức đó chịu Phép Rửa. “Và khi hai ông lên khỏi nước, thần linh Chúa đem ông Philip đi mất ...” (Cv 8:39).
Như được thấy, Lễ Hiện Xuống đã lan rộng và đem lại thành quả dồi dào. Nhiều người chấp nhận Tin Mừng và tòng giáo nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Công Vụ Tông Đồ là lịch sử việc hoàn thành điều Chúa Kitô hứa: Chúa Thánh Linh được Chúa Kitô gởi đến ngự xuống trên các môn đệ và hoàn tất công việc của Chúa Kitô khi Ngài trở về với Chúa Cha (tc. Jn 13:1; 16:28), sau khi kết thúc “ngày làm việc của mình” (tc. Jn 5:17) trong đêm chịu cực hình và tử nạn (tc. Lc 13:33; Jn 9:4). Giai đoạn thứ nhì này trong công cuộc cứu độ của Chúa Kitô bắt đầu bằng Lễ Hiện Xuống.
Buổi gặp chung ngày 20 tháng Mười Hai, 1989
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Ý nghĩa từ ngữ “Thánh Linh” trong Cựu Ước
Trong những bài huấn giáo về ngôi vị và sứ mệnh của Chúa Thánh Linh, trước hết chúng ta đã tìm hiểu và lắng nghe lời Chúa Giêsu loan báo và hứa về Chúa Thánh Linh, đặc biệt là trong Tiệc Ly. Chúng ta đã xem xét lại phần tường thuật về Chúa Thánh Linh ngự đến ghi trong Công Vụ Tông Đồ. Chúng ta phải duyệt lại các văn bản Tân Ước tìm hiểu những điều Giáo Hội sơ khai rao giảng về Chúa Thánh Linh và lòng tin vào Ngài. Nhưng trong phần phân tích chúng ta lại thường khai triển Cựu Ước. Chính các tông đồ khi rao giảng lần đầu tiên ngay sau khi Chúa Thánh Linh hiện xuống đã trình bày rõ ràng việc Chúa Thánh Linh ngự đến như là sự hoàn tất những lời hứa và tiên tri trong Cựu Ước. Các ngài coi giao ước cũ và lịch sử Israel như là thời gian chuẩn bị cho việc đón nhận sự sung mãn chân lý và ân sủng do Đấng Thiên Sai đem lại.
Lễ Hiện Xuống đích thực là một biến cố trọng đại chuyển biến tương lai. Vì Lễ Hiện Xuống ghi dấu lúc khởi đầu thời đại Chúa Thánh Linh, Đấng mà chính Chúa Giêsu đã nói là vị chủ chốt, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, trong công cuộc cứu độ, một công cuộc được ấn định phải chảy tràn từ thập giá tới toàn thế giới. Vả lại, muốn hiểu đầy đủ hơn toàn thể mạc khải về Chúa Thánh Linh, cần phải trở ngược dòng thời gian, tức là tìm trong Cựu Ước, để thấy được những dấu vết việc chuẩn bị lâu dài cho mầu nhiệm Phục Sinh và Lễ Hiện Xuống.
Vì thế chúng ta lại cần phải suy gẫm những dữ kiện Phúc Âm liên quan đến Chúa Thánh Linh và tiến trình mạc khải từ những phác thảo trong Cựu Ước dần dần hiện lên thành những minh định của Tân Ước. Những sự kiện này được mô tả từ trước trong công cuộc tạo dựng, kế đến là trong công cuộc cứu độ; trước tiên trong lịch sử và các lời tiên tri về Israel, rồi đến cuộc đời và sứ mệnh Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai, từ giây phút Nhập Thể cho tới khi phục sinh.
Đầu tiên phải nghiên cứu sự kiện về danh xưng Chúa Thánh Linh mà lần thứ nhất ghi được trong Cựu Ước và những ý nghĩa khác biệt của danh xưng này.
Chúng ta biết theo não trạng người Do Thái thì một danh xưng có ý nghĩa đặc biệt tiêu biểu một con người. Chúng ta có thể nhớ lại tầm quan trọng được qui chiếu cho việc kêu thánh danh Thiên Chúa trong Sách Xuất Hành và trong toàn thể truyền thống Do Thái. Việc mạc khải một danh xưng được coi là sự hiển lộ của chính ngôi vị đó: thánh danh đã cấu thành mối liên hệ giữa dân chúng và sự hiện hữu siêu việt của Thiên Chúa (tc. Xh 3:13-14).
Thánh danh nói về Chúa Thánh Linh trong Cựu Ước giúp chúng ta hiểu các đặc tính của Ngài, mặc dù chỉ nhờ mạc khải trong Tân Ước chúng ta mới học biết được thực tại của Ngài là một Ngôi Vị Thần Linh, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con. Thiệt là chính đáng khi cho rằng từ ngữ được các tác giả Sách Thánh chọn rất chính xác, và hơn nữa, chính Chúa Thánh Linh, Đấng linh hướng các ngài, đã hướng dẫn tiến trình triết học và văn học dẫn tới việc soạn thảo và trình bày chi tiết giải thích chính xác việc định nghĩa Ngôi Vị của Ngài trong Cựu Ước nữa.
Trong Phúc Âm, từ ngữ chỉ Thánh Linh (Thần Khí) tiếng Hebrew là ruah. Nghĩa thứ nhất của từ ngữ ruah chuyển sang Latin là spiritus, nghĩa là “hơi thở.” (Theo Anh ngữ sự liên hệ giữa tinh thần, thần khí và hơi thở cũng rõ ràng.) Chúng ta nhận thấy hơi thở là thực tại vô hình. Không thể nhìn thấy hơi thở; không thể dùng tay mà nắm được hơi thở; dường như hơi thở là hư không, dẫu vậy hơi thở vô cùng quan trọng, quan trọng sinh tử. Người ta không thở thì không thể sống. Sự khác biệt giữa người sống và người chết là người sống có hơi thở và người chết không còn hơi thở. Sự sống từ Thiên Chúa mà có. Vì thế hơi thở cũng từ Thiên Chúa mà có, và Ngài có thể lấy hơi thở đi (tc. Tv 104: 29-30). Nhìn hơi thở theo cách này, chúng ta hiểu sự sống lệ thuộc vào một nguyên tắc tinh thần, nguyên tắc đó được gọi cũng bằng từ ngữ Hebrew là ruah. Hơi thở của người ta có liên hệ nhiều hơn nữa với gió, một thứ hơi thở mạnh mẽ bên ngoài.
Từ ngữ ruah tiếng Hebrew (Do Thái), cũng như từ ngữ spiritus của Latin, cũng nói đến sự chuyển động (thổi) của gió. Không ai nhìn thấy gió, dẫu vậy hiệu lực của gió thì mạnh. Gió đưa mây bay và làm cây cối rung lay. Khi gió mạnh, gió có thể làm biển động và nhận chìm tàu thuyền (tc Tv 107:25-27). Đối với cổ nhân gió có vẻ là sức mạnh huyền bí mà Thiên Chúa nắm quyền điều khiển (tc Tv 1:4:3-4). Gió đã từng được gọi là “hơi thở của Thiên Chúa.”
Sách Xuất Hành ghi: “Đấng Yahweh khiến gió đông thổi mạnh suốt đêm rẽ biển thành hai, và làm cho lòng biển thành đất khô. Nước biển tách ra như vách hai bên và con cái Israel đi qua đất khô giữa lòng biển ...” (Xh 14:21-22). Trong chương kế tiếp cũng những sự việc tương tự được mô tả bằng những vần thơ và làn gió đông được gọi là “luồng khí từ mũi’ Thiên Chúa. Khi nói về Thiên Chúa, thi nhân nói: “Luồng khí từ hai cánh mũi Ngài phát ra và nước đùn cao chất ngất ... Một hơi Ngài thở, biển lại phủ chìm những người đó” (Xh 15:8-10). Áng thơ này mô tả gợi cảnh lòng kiên tín gió là khí cụ Thiên Chúa dùng trong những trường hợp này.
Từ nhận thức sức mạnh vô hình của gió, người ta biết được sự hiện hữu của “Thánh Linh (Thần Khí) Thiên Chúa.” Các văn bản trong Cựu Ước, chúng ta dễ dàng hiểu từ nghĩa này qua nghĩa khác, và ngay cả trong Tân Ước chúng ta thấy gió lưỡng nghĩa (gió có hai nghĩa). Để giúp ông Nicodemus hiểu cách Chúa Thánh Linh hoạt động, Chúa Giêsu dùng ẩn dụ (hình dung so sánh, tỉ dung) với gió, và Chúa dùng cũng cách nói đó trong cả hai trường hợp: “Gió muốn thổi đi đâu thì thổi ... Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Jn 3:8).
Vì thế ý kiến căn bản được mô tả trong danh xưng theo Phúc Âm về Thánh Linh không nói về sức mạnh linh thiêng, nhưng là sức thúc đẩy sinh động, thí dụ như sức mạnh của gió. Trong Phúc Âm, chức năng thứ nhất của Thánh Linh (thần khí) không phải là cho hiểu, nhưng làm cho chuyển động, không chiếu ánh sáng, nhưng gieo cho tính năng động.
Tuy nhiên nhận định trên không hoàn toàn tuyệt đối. Những phương diện khác cũng được diễn tả như những viên gạch lát đường cho việc mạc khải tiếp theo sau. Trước nhất và trên hết là về phương diện nội tâm. Hẳn nhiên, hơi thở đi vào trong con người. Theo thuật ngữ Phúc Âm, điều này có thể diễn tả bằng cách nói Thiên Chúa hà thần khí vào trái tim con người (tc. Ez 36:26; Rom 5:5). Vì quá loãng mỏng, không khí có thể thấm nhập không những vào thân xác chúng ta, mà cũng cả mọi chỗ hở và khe nứt. Điều này khiến chúng ta hiểu “thần khí của Chúa phủ ngập thế giới” (Kn 1:7) và thấm nhập đặc biệt “mọi thần khí thông minh, tinh tuyền và tinh tế bén nhạy nhất” (7:23), như lời Sách Khôn Ngoan dạy.
Liên quan tới khía cạnh tâm thức là khía cạnh tri thức. Thánh Phaolô hỏi: “Ai biết được đáy lòng người ta, nếu không phải là chính thần khí người đó?” (1 Cor 2:11). Chỉ có thần khí của người ấy mới biết những phản ứng và tâm trạng thầm kín của chính mình mà chưa hề truyền thông cho người khác. Cũng tương tự, và với lý do mạnh hơn, Thánh Linh Thiên Chúa hiện diện trong mọi hiện hữu của vũ trụ và biết mọi sự thâm sâu kín nhiệm (Kn 1:7). Dĩ nhiên, “Thánh Linh (Thần Khí) thấm sâu trong lòng sự vật, ngay cả cõi sâu thẳm của Thiên Chúa ... Những sâu thẳm của Thiên Chúa chỉ có thể thấu biểu bởi Thánh Linh (Thần Khí) Thiên Chúa” (1 Cor 2:10-11).
Khi đề cập đến vấn đề tri thức và đối thoại giữa con người, chúng ta không thể quên hơi thở phải song hành với ngôn từ. Muốn nói chúng ta phải sử dụng hơi thở. Thanh đới làm rung hơi thở, và như thế hơi thở chuyển thanh âm của ngôn từ. Được linh hướng nhờ sự kiện này, Sách Phúc Âm đưa ra một so sánh giữa lời nói và hơi thở (tc. Is 11:4), hoặc lời nói và thần khí. Nhờ hơi thở, lời nói được truyền đi; từ hơi thở phát ra sức mạnh và năng động tính. Thánh Vịnh 33 dùng lối tỉ dung (so sánh) này về biến cố lúc khởi đầu sáng thế và viết: “Do lời Yahweh các tầng trời được tạo dựng, do hơi khí miệng Ngài tạo thành các thiên thể ...” (Tv 33:6).
Trong những văn bản thuộc loại này chúng ta có thể thấy một sự chuẩn bị từ xa cho việc Chúa Kitô mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa Cha là uyên nguyên việc tạo dựng muôn loài. Ngài tạo dựng mọi sự bởi Lời của Ngài, tức là bởi Chúa Con, và bởi Hơi Thở (Thần Khí) của Ngài, Chúa Thánh Linh.
Từ ngữ ruah có nhiều nghĩa của Hebrew được sử dụng trong Phúc Âm để biểu thị Thánh Linh (Thần Khí), tuy nhiên cũng đem lại một vài lúng túng (mơ hồ). Hiển nhiên, trong một văn bản, thường không thể xác định nghĩa chính xác của từ ngữ ruah. Người ta có thể phân vân giữa gió và hơi thở, giữa hơi thở và thần khí, hoặc giữa thần khí thụ tạo và Thánh Linh (Thần Khí) Thiên Chúa.
Tuy nhiên, tính cách đa dạng này có giá trị của nó, vì nó thiết lập sự truyền thông có hiệu quả giữa quá nhiều thực thể. Về phương diện này, tốt hơn cả là bỏ đi phần nào những kỳ vọng của lý luận ngõ hầu nắm được những ý nghĩa bao quát hơn. Khi nghĩ về Chúa Thánh Linh, điều hữu ích là chúng ta nhớ danh xưng của Ngài theo Phúc Âm có nghĩa là “hơi thở,” và ý nghĩa đó liên quan với sức thổi mạnh của gió và hơi thở của chính chúng ta. Thay vì bám víu vào quan niệm thuần lý khô khan, chúng ta sẽ thấy hữu ích khi chấp nhận giá trị của những hình ảnh và sự kiện này. Nhưng rủi thay, những chuyển dịch (chuyển ngữ, phiên dịch) đều không có khả năng chuyển tải những điều đó tới cho chúng ta cách đầy đủ, vì phiên dịch từ ngữ ruah thường phải lựa chọn song hành với những từ ngữ khác. Để dịch từ ngữ ruah của tiếng Hebrew, bản Septuagint (Bảy Mươi) chuyển ruah ra tiếng Hy Lạp đã dùng hai mươi bốn (24) từ ngữ khác nhau, và như thế không cho phép người ta hiểu cặn kẽ ý nghĩa của hạn từ đó trong các văn bản của Phúc Âm viết bằng tiếng Hebrew (Do Thái).
Để chấm dứt phần phân tích thuật ngữ này của những văn bản Cựu Ước về từ ngữ ruah, chúng ta có thể nói hơi thở (thần khí, thánh linh) của Thiên Chúa xuất hiện trong những từ ngữ này là quyền năng sức mạnh ban sự sống cho các thụ tạo. Từ ngữ ruah mô tả thực tế sâu thẳm của Thiên Chúa hoạt động âm thầm sâu thẳm nơi con người ta. Từ ngữ ruah biểu lộ rõ ràng năng động tính của Thiên Chúa hiệp thông với các thụ tạo.
Tuy rằng chưa nhận thức được Ngôi Vị rõ ràng như thế nào trong ngữ cảnh về tồn hữu siêu nhiên, nhưng “hơi thở (thần khí, thần linh)” hoặc “Thánh Linh (Thần Khí)” của Thiên Chúa có thể phân biệt được theo cách nào đó với Thiên Chúa Đấng phái Thần Khí của Ngài hoạt động nơi các thụ tạo. Như thế, từ quan điểm văn chương, tri thức nhân loại được chuẩn bị dần dần để tiếp nhận mạc khải về Ngôi Vị Chúa Thánh Linh hiện ra như là cách biểu lộ đời sống và quyền tuyệt đối của Thiên Chúa.
Buổi gặp chung ngày 3 tháng Giêng, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Hành Động Sáng Tạo của Thánh Linh Thiên Chúa
Từ ngữ ruah (tiếng Hebrew) trong Thánh Kinh có nghĩa nhấn mạnh là “hơi thở của Thiên Chúa,” ý nghĩa đó dường như muốn minh chứng tương quan giữa hành động vô hình, linh thiêng, thấm nhập cùng uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa và gió, bắt nguồn từ tâm lý và truyền thống mà các tác giả sách thánh đã căn cứ vào. Đồng thời từ ngữ “thần khí Thiên Chúa” cung cấp chất liệu mới cho tư duy. Mặc dầu nhiều nghĩa, từ ngữ “thần khí Thiên Chúa” luôn luôn được dùng diễn tả sức mạnh chính yếu hoạt động từ bên ngoài hoặc trong con người và thế giới. Cho dù không đề cập trực tiếp đến một ngôi vị thần linh, từ ngữ ruah vẫn qui chiếu về Thiên Chúa, “Thánh Linh, Thần Khí (hoặc hơi thở của) Thiên Chúa,” đã gieo vào và gợi lên trong tâm trí người Israel ý niệm về Thiên Chúa linh thiêng, Đấng can thiệp vào lịch sử và đời sống nhân loại. Từ ngữ “thần khí Thiên Chúa” chuẩn bị môi trường cho mạc khải sau này về Chúa Thánh Linh.
Bởi thế chúng ta có thể nói rằng trong phần tường thuật của Sách Sáng Thế đã có sự hiện diện của “thần khí hoặc gió của Thiên Chúa,” thần khí bay là là trên mặt nước trong khi trái đất chưa có hình dáng và còn hỗn mang, và bóng tối còn bao trùm khắp nơi (tc. St 1:2), là dẫn chiếu quan trọng về sức mạnh sinh tồn đó. Sự việc tường thuật trong Sách Sáng Thế cho biết hơi thở hoặc thần khí Thiên Chúa giữ vai trò quan trọng trong công cuộc tạo dựng: sức mạnh ban sự sống, cùng với “lời” tạo dựng và an bài mọi sự.
Ngay từ khởi đầu chúng ta nhận thấy trong tường thuật sáng thế sự liên kết giữa thần khí Thiên Chúa với nước. Trong những văn bản khác của Phúc Âm, chúng ta cũng tìm thấy sự liên kết này dưới một hình thức khác gần gũi hơn nữa, chính Thánh Linh được trình bày là “nước sinh hoa trái,” là “nguồn sống mới.” Sách An Ủi, Deutero-Isaiah, mô tả lời Thiên Chúa hứa: “(Vì) Ta sẽ đổ nước xuống nơi hạn hán, và suối tuôn trào nơi đất khô cháy; Ta sẽ tuôn đổ Thánh Linh của Ta trên dòng giống các ngươi, và phúc lành của Ta trên miêu duệ các ngươi. Chúng sẽ trổ mọc như cỏ xanh rờn giữa ruộng nước mênh mông, như rặng liễu bên dòng suối” (Is 44:3-4). “Nước” mà Thiên Chúa hứa đổ xuống là Thánh Linh của Ngài, Ngài sẽ “trút xuống” trên dân Ngài. Cũng tương tự ngôn sứ Ezekiel loan báo Thiên Chúa “sẽ tuôn đổ” Thánh Linh của Ngài trên nhà Israel (Ez 39:29), và ngôn sứ Joel cũng dùng cách diễn tả so sánh thần khí với nước được trút xuống: “Ta sẽ trút đổ thần khí của Ta trên mọi người” (Joel 3:1 trong bản tiếng Hebrew).
Tân Ước nhắc lại biểu tượng nước là hình ảnh tiêu biểu Chúa Thánh Linh, phong phú hóa bằng những ý nghĩa mới. Chúng ta sẽ có dịp bàn tới những ý nghĩa này.
Trong phần tường thuật sáng thế, sau khi nói đến thần khí hoặc hơi thở của Thiên Chúa bay là là trên mặt nước (St 1:2) thì chúng ta không còn tìm thấy từ ngữ ruah của tiếng Hebrew mang ý nghĩa là thần khí nữa. Tuy nhiên, tiến trình tạo dựng con người vẫn còn thấy sự liên quan với thần khí hoặc hơi thở của Thiên Chúa. Sáng Thế Ký tường thuật: sau khi đã tạo dựng con người từ bụi đất, Chúa là Thiên Chúa “hà hơi thở sự sống vào (lỗ) mũi con người; và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Khi so sánh với các bản văn khác, chúng ta thấy từ ngữ “hơi thở” (tiếng Hebrew là neshama) đồng nghĩa với “gió” hoặc “thần khí (thánh linh, ruah)”. Trái lại, hành động “thở (hà hơi)” của Thiên Chúa trong tường thuật sáng thế, được qui cho Thánh Linh trong thị kiến tiên tri về sự phục sinh (Ez 37:9).
Sách Thánh cho chúng ta hiểu Thiên Chúa cũng can thiệp qua hơi thở hoặc thần khí của Ngài để con người trở thành nhân sinh sống động. Như vậy con người có “hơi thở sự sống,” mà “chính Thiên Chúa đã hà hơi vào.” Như vậy con người cùng có hơi thở hoặc thần khí của Thiên Chúa.
Chương II Sách Sáng Thế, nói về tạo dựng các thú vật (câu 19), không nói tới sự liên hệ gần gũi với thần khí của Thiên Chúa như con người. Từ chương trước, chúng ta biết con người được tạo dựng “theo hình ảnh và giống Thiên Chúa” (St 1:26-27).
Tuy nhiên, những văn bản khác nhìn nhận: các thú vật cũng có hơi thở cần cho sự sống chúng nhận được từ Thiên Chúa. Về phương diện này con người, từ tay Thiên Chúa tạo dựng, có một điểm chung như tất cả mọi sinh vật. Vì thế Thánh Vịnh 104 không phân biệt người ta với dã thú khi nói về Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa: “Muôn loài hết thảy đều hướng về Ngài, ban cho chúng lương thực đúng mùa. Khi Ngài ban thì chúng lượm” (104: 27-28). Kế đó Thánh Vịnh gia nói thêm: “Khi Ngài rút hơi thở của chúng lại, chúng chết tức thời và trở về bụi đất. (Khi Ngài rút hơi thở, chúng trở thành cát bụi). Khi Ngài phái Thần Khí của Ngài tới, chúng được tạo thành; và Ngài đổi mới bộ mặt trái đất” (104: 29-30). Vì thế sự hiện hữu của mọi loài thụ tạo đều tùy thuộc vào hành động của hơi thở, thần khí của Thiên Chúa, Đấng không những chỉ tạo dựng mà còn duy trì và luôn luôn canh tân bộ mặt trái đất.
Công trình tạo dựng thứ nhất đã bị tàn phá bởi tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa không để cho công trình đó hủy diệt mà Ngài vẫn chuẩn bị việc cứu độ, mà công cuộc cứu độ đó là “công trình tạo dựng mới” (tc. Is 65:17; Gal 6:15; Kh 21:5). Công việc của Thánh Linh Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng mới này được mô tả trong lời tiên tri danh tiếng của ngôn sứ Ezekiel về việc phục sinh. Trong một thị kiến đặc biệt vị ngôn sứ nhìn thấy một thung lũng bao la “đầy khô cốt,” và được lệnh phải nói với những khô cốt đó: “Hỡi những khô cốt, hãy nghe lời của Chúa. Vì Thiên Chúa nói với những khô cốt này: ‘Này trông, Ta sẽ ban hơi thở cho các ngươi, và các ngươi sẽ sống ...’” (Ez 37:1-5). Ngôn sứ Ezekiel thi hành lệnh Chúa truyền và “có tiếng ồn ào, tiếng khua lạch cạch, và những bộ xương khô này tụ lại với nhau, xương nào vào bộ nấy” (37:7). Kế đến là có cơ bắp, tiếp theo là da thịt phủ trên các khô cốt đó; và sau cùng theo lệnh của ngôn sứ, là hơi thở, chúng đã hồi sinh và đứng lên (tc. 37:8-10).
Ý nghĩa thứ nhất của thị kiến này là để loan báo việc phục hồi dân Israel sau khi bị tàn phá và lưu đày, Chúa phán: “Những khô cốt này là toàn thể nhà Israel.” Con cái Israel đã coi như là hư mất, không còn hy vọng gì. Thiên Chúa hứa với họ: “Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống” (37:14). Tuy nhiên, trong ánh sáng mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu, những lời tiên tri đó đạt được ý nghĩa cao cả hơn, ý nghĩa việc loan báo sự phục sinh thực sự thân xác phải chết của chúng ta nhờ việc làm của Thánh Linh Thiên Chúa.
Thánh Phaolô xác tín điều này của đức tin: “Nếu Thánh Linh của Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu ở trong anh chị em, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại sẽ ban sự sống cho thân xác phải chết của anh chị em cũng nhờ Thánh Linh của Ngài ở trong anh chị em” (Rom 8:11).
“Công trình tạo dựng mới” khởi đầu bằng công việc của Chúa Thánh Linh trong cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Trong cuộc khổ hình cứu độ, Chúa Giêsu về phần nhân tính của Ngài đã nhận đầy đủ hành động của Chúa Thánh Linh (tc. Dt 9:14). Vì thế Chúa Giêsu chuyển từ sự chết sang sự sống mới (tc. Rom 6:10), mà lúc này Ngài hiệp thông cho toàn thể tín hữu bằng việc thông ban cho họ cũng Thánh Linh này, khởi đầu từ Phép Rửa, và sau cùng kết thúc trọn vẹn trong việc phục sinh của Ngài.
Chiều ngày Phục Sinh, khi hiện ra với các môn đệ trong căn phòng trên lầu, Chúa Kitô phục sinh đã lặp lại cho các tông đồ hành động của Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa khi dựng lên ông Adong. Thiên Chúa đã “hà hơi (thổi hơi)” trên thân xác con người để ban cho con người sự sống. Chúa Giêsu đã “hà hơi” vào các môn đệ Ngài và nói với các ông: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh” (Jn 20:22).
Như thế hơi thở (theo nhân tính) của Chúa Giêsu tạo ra hoạt động thần linh còn lạ lùng hơn hơi thở nguyên thủy. Đây không phải chỉ là việc tạo dựng một con người sống, như trong việc tạo dựng thứ nhất, nhưng là đưa nhân loại đi vào đời sống thần linh.
Vì thế, Thánh Phaolô đã minh xác sự song song và đối lập giữa ông Adong và Chúa Kitô, giữa việc tạo dựng thứ nhất và thứ hai, khi ngài viết: “Nếu có con người thể lý thì cũng có con người linh khí (thần thiêng). Vì thế được viết, ‘Con người thứ nhất là Adong đã trở nên một sinh linh’ (St 2:7), con người Adong sau cùng đã trở nên thần khí ban sự sống” (1 Cor 15:44-45). Chúa Kitô phục sinh, con người Adong mới, nhân tính của Ngài cũng được Chúa Thánh Linh thấm nhập, đến độ chính Chúa Kitô có thể được gọi là “Thánh Linh.” Nhân tính của Chúa Kitô không những chỉ sở hữu trọn vẹn Chúa Thánh Linh, mà cũng có khả năng truyền thông sự sống Thánh Linh cho toàn thể nhân loại. Thánh Phaolô viết: “Người nào ở trong Chúa Kitô, thì người ấy là một tạo vật mới” (2 Cor 5:17).
Việc tạo dựng và đổi mới của Thánh Linh Thiên Chúa vì thế được hiển lộ trọn vẹn trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa Kitô. Giáo Hội dâng lên lời kêu cầu Chúa Thánh Linh: “Xin ngự đến, lạy Thánh Linh Tạo Thành.” “Veni Creator Spiritus,” “Xinãy ngự đến, lạy Thánh Linh Tạo Thành.”
Buổi gặp chung ngày 10 tháng Giêng, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Công Việc Hướng Dẫn của Thánh Linh Thiên Chúa
Cựu Ước cho chúng ta nhiều thí dụ giá trị về chức năng của gió được nhìn nhận là biểu tượng của Thánh Linh Thiên Chúa, như: “làn gió thoảng,” “hơi thở,” “sức mạnh ban sự sống.” Những thí dụ này không những chỉ gặp trong các sách tôn giáo và văn học của các nhà biện giải Thánh Kinh phản chiếu cả tâm lý lẫn từ vựng của Israel, mà cũng còn thấy trong chính cuộc đời của những nhân vật đã lãnh đạo dân tộc đó trong hành trình lịch sử của họ hướng về tương lai có tính cách thiên sai.
Theo các nhà biện giải Thánh Kinh thì chính Chúa Thánh Linh hoạt động nơi các nhà lãnh đạo. Chúa Thánh Linh bảo đảm chắc chắn các vị đó không những chỉ hành động nhân danh Thiên Chúa, mà cũng hướng dẫn hoạt động của họ phụng sự cách đích thực cho việc thi hành chương trình của Thiên Chúa. Các nhà lãnh đạo không nên quá chú ý tới việc xây dựng và củng cố quyền lực cá nhân hoặc thể chế, nhìn theo quan điểm phong kiến hoặc quí tộc, nhưng nên hướng về giá trị việc phục vụ tha nhân và nhất là thành phần quần chúng. Có thể nói, nhờ trung gian của các nhà lãnh đạo, Thần Linh Thiên Chúa đến và hướng dẫn lịch sử dân Israel.
Theo lịch sử các tổ phụ, chúng ta có thể lưu ý rằng Thần Linh hướng dẫn và chỉ dạy các ngài trong mọi hành trình, trong các cuộc di chuyển và hoạt động; mà bàn tay thần linh còn sắp đặt chương trình cho con cháu các ngài nữa. Một trong các vị đó là tổ phụ Giuse; Thánh Linh khôn ngoan của Thiên Chúa ở trong ông. Ông (Giuse) được vua Pharaoh nhận ra và hỏi các cận thần: “Liệu chúng ta có tìm đâu ra người nào khác, được ban đầy thần khí Thiên Chúa như y hay không?” (Stk 41:38). Thần khí Thiên Chúa ban cho ông Giuse khả năng điều khiển quốc gia và hoàn thành những sứ mệnh đặc biệt không những chỉ riêng cho gia đình, cho nhiều chi tộc trong đại tộc của ông, nhưng cũng trên bình diện toàn thể lịch sử tương lai Israel.
Thánh Linh Thiên Chúa cũng hoạt động trong ông Moses, vị trung gian giữa Yahweh Thiên Chúa và dân Ngài. Thánh Linh nâng đỡ và hướng dẫn ông trong cuộc xuất hành đưa dân Israel về quê hương và làm cho họ thành một dân tộc độc lập, có khả năng chu toàn vai trò thiên sai của mình. Khi các gia đình cắm lều ở sa mạc, ông Moses bị căng thẳng vì áp lực của dân chúng, ông đã than khóc trước mặt Thiên Chúa: ông cảm thấy không đủ khả năng chịu đựng “áp lực của toàn dân này” (Ds 11:14). Thiên Chúa truyền cho ông chọn bảy mươi người. Ông phải sắp đặt một cơ cấu quản trị đầu tiên để cho những người ấy cai quản các chi tộc du mục đó, và Thiên Chúa nói với ông: “Ta cũng sẽ lấy phần nào thần khí ở ngươi mà ban cho những người đó, để họ có thể chia sẻ với ngươi gánh nặng dân chúng, và ngươi sẽ không phải chịu gánh nặng đó một mình” (Ds 11:17). Và như thế, cùng với bảy mươi kỳ mục tụ họp quanh lều “Chúa đã lấy phần nào thần khí ở ông Moses mà ban cho bảy mươi kỳ lão đó” (Ds 11:25).
Vào cuối đời, ông Moses đã phải lo lắng để lại cho dân một nhà lãnh đạo ngõ hầu “dân đó không trở nên đàn chiên không người chăn,” Chúa đã chỉ định ông Joshua; ông Joshua là “người mà thần khí đã hiển hiện” (Ds 27:17-18). Ông Moses đặt “hai tay trên ông Joshua” và ông Joshua cũng được “tràn đầy thần khí khôn ngoan” (Đnl 34:9). Đây là những trường hợp điển hình sự hiện diện và hành động của Thánh Linh trong đời sống các nhà lãnh đạo dân Israel.
Xức dầu là dấu chỉ thần linh ân phong
Đôi khi ơn Thánh Linh cũng ban cho một người, dù không phải là người lãnh đạo, được Thiên Chúa gọi để phục vụ sứ mệnh quan trọng trong những thời gian và hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Chẳng hạn như khi tới lúc phải dựng lều hội ngộ và làm hòm bia giao ước, Thiên Chúa bảo ông Moses: “Này coi, Ta đã gọi Bezalel ... Ta đã ban cho nó ơn khéo tay và sự hiểu biết mọi nghệ thuật” (Xh 31:3; tc. 35:31). Và hơn nữa, Thiên Chúa ban thêm cho cả những người làm việc nghệ thuật này chung với ông (Bezalel): “Ta cũng đã ban mọi tài năng trác tuyệt cùng với mọi khéo léo cần thiết để kiến tạo mọi thứ Ta đã truyền cho ngươi phải làm: lều hội ngộ, hòm bia thập giới của Ta” (Xh 31:6-7).
Sách Thủ Lãnh (the Book of Judges),) trước tiên mừng cuộc đời những người được gọi là “những anh hùng giải phóng,” nhưng về sau cũng mừng những người cai trị các thành và quận hạt trong thời gian định cư giữa các thời kỳ chi tộc và triều đại quân chủ. Theo cách dùng động từ shâfat (“cai trị, lãnh đạo)” trong ngôn ngữ Semitic liên hệ với tiếng Hebrew, những người này được coi không phải chỉ là những người cầm cân nảy mực, mà cũng còn là những nhà lãnh đạo dân chúng. Những người đó được Thiên Chúa lập lên, đã thông ban cho họ thần khí (hơi thở, ruah) của Ngài và đáp lại những lời họ kêu cầu lúc khốn khó nguy nan. Trong Sách Thủ Lãnh (còn gọi: Sách Thẩm Phán) nhiều lần các vị đó xuất hiện và làm những việc vẻ vang được quy chiếu về ơn của Thần Khí. Như trong trường hợp ông Othniel, đầu tiên trong số các thủ lãnh vĩ đại như lịch sử giản lược cho biết: “khi dân Israel kêu cầu Chúa, Ngài lập nên cho họ một vị cứu tinh, Othniel ... và ông đã cứu họ. ‘Thần khí của Chúa đến ngự trên ông và ông xét xử dân Israel” (Tl 3:9-10).
Trường hợp ông Gideon nhấn mạnh quyền năng của hoạt động thần linh: “Thần khí Thiên Chúa bao bọc ông Gideon” (Tl 6:34). Điều đó cũng nói về ông Jephthah: “thần khí Chúa ngự trên ông Jephthah” (Tl 11:29). Và “Thần khí Chúa bắt đầu thúc đẩy ông” Samson (Tl 13:1). Trong những trường hợp này thần khí Thiên Chúa ban sức mạnh, lòng can đảm phi thường để đưa ra quyết định, và đôi khi khả năng có tính cách chiến lược tuyệt vời, nhờ đó một người có khả năng thi hành sứ mệnh được trao phó trong việc giải phóng và lãnh đạo dân chúng.
Khi sự thay đổi nhảy vọt trong lịch sử xảy ra từ thể chế thủ lãnh (phán quan) đến chế độ quân chủ, khi dân Israel kêu xin có “vua để cai trị chúng tôi, như các dân nước khác” (1 Sam 8:5), vị thủ lãnh lão thành và cũng là nhà giải phóng Samuel hành động mà không làm mất lý tưởng dân Israel thuộc về Thiên Chúa, là dân được tuyển chọn và bảo đảm yếu tố căn bản của chính trị thần quyền, tức là sự nhìn nhận quyền của Thiên Chúa trên dân chúng. Việc xức dầu phong vương như một nghi lễ nhậm chức là dấu chỉ thần linh tấn phong đặt sức mạnh chính trị phục vụ mục đích tôn giáo và thiên sai. Sau khi đã xức dầu cho ông Saul, ông Samuel bảo ông Saul theo ý nghĩa này, rồi nói tiên tri việc gặp tại Gibeath một nhóm chuyên đối đáp thánh vịnh: “Thần khí của Chúa trút xuống trên ông và ông sẽ nhập đoàn với những người đó trong sứ mệnh tiên tri và ông sẽ được đổi thành con người khác” (1 Sam 10:6). Khi những dấu chỉ đầu tiên về chiến tranh trở nên rõ ràng, “Thần khí Thiên Chúa tuôn xuống trên ông Saul” (1 Sam 11:16). Lời hứa bảo vệ và giao ước “Thiên Chúa sẽ ở với ông” (1 Sam 10:7) mà ông Samuel chuyển tới ông Saul đã được thể hiện. Khi thần khí Thiên Chúa bỏ ông Saul, ông ta bị ma quỉ làm cho sợ hãi (tc. 1 Sam 16:14). Ông David xuất hiện, ông được lão trượng Samuel xức dầu và “từ ngày đó trở đi, thần khí của Chúa tuôn đổ xuống trên ông David” (1 Sam 16:13).
Rõ ràng hơn ông Saul, ông David tỏ ra là vị quân vương lý tưởng được Chúa xức dầu, một Quân Vương Có Tính Cách Thiên Sai tương lai, sẽ thực sự là người giải phóng và cứu độ dân mình. Mặc dầu những người kế vị vua David không đạt tới tầm vóc của ông trong việc nhận thức vương quyền thiên sai, và không ít những vị vua đó đã lạm dụng giao ước của Yahweh Thiên Chúa với dân Israel, lý tưởng Đấng Thiên Sai-Vua vẫn còn tồn tại. Lý tưởng đó dự phóng cho tương lai trong ý nghĩa mong chờ lại bừng sáng lên nhờ những lời các ngôn sứ loan báo.
Ngôn sứ Isaiah đặc biệt nhấn mạnh sự liên hệ giữa Thánh Linh Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai: “Thần khí Chúa sẽ ngự trên Ngài (Đấng Thiên Sai)” (Is 11:2). Lại một lần nữa sẽ là thần khí sức mạnh và hơn hết tất cả là thần khí khôn ngoan: “một thần khí khôn ngoan và hiểu biết, một thần khí an ủi và sức mạnh, một thần khí tri thức và kính sợ Chúa,” tất cả đều từ Đấng Thiên Sai mà ra sẽ hoạt động cách công chính thay mặt cho những người bị đau khổ, người nghèo khó và người bị áp bức (Is 11:2-4).
Như thế Thánh Linh của Chúa (tc. Is 42:1; 61:1 f; 63:10-13; Tv 50; 51:13; Kn 1:5; 9:17), “hơi thở (ruah)” của Ngài trong khắp lịch sử Phúc Âm được ban trọn vẹn cho Đấng Thiên Sai. Cũng chính Thánh Linh đã thở hơi trên những uông mang trước khi tạo dựng (tc. Stk 1:2), Thánh Linh Đấng ban sự sống cho muôn loài (tc. Tv 104:29-30; St 2:7; Ez 37:5-6, 9-10), đặt lên các thủ lãnh (phán quan) (tc. Đnl 3:10; 6:34; 11:29) và quân vương (tc. 1 Sam 11:6), Thánh Linh còn ban cho nghệ nhân khả năng chu toàn công việc của họ nơi cung thánh (tc. Xh 31:3; 35:31), ban cho ông Giuse sự khôn ngoan (tc. St 41:38), ban linh hướng cho ông Moses và các tiên tri (Ds 11:17, 25-26; 24:2; 1 Sam 23:2) và cuối cùng đổ tràn đầy ân sủng trên Đấng Thiên Sai (tc. Is 11:2). Thánh Linh ban cho Đấng Thiên Sai khả năng chu toàn sứ mệnh về công chính và hòa bình. Thánh Linh sẽ ngự trên người nào mà Thiên Chúa sẽ “đặt Thánh Linh của Ngài” “sẽ đem lại sự công chính cho các dân tộc” (Is 42:1). “Ngài sẽ không rút lui hoặc chán nản cho tới khi đã thiết lập sự công chính trên trái đất” (Is 42:4).
Bằng cách nào Đấng Thiên Sai “thiết lập sự công chính” và giải phóng những người bị áp bức? Liệu việc đó có xảy ra nhờ sức mạnh của cánh tay quyền lực như các thủ lãnh Israel đã làm, dưới sự thúc đẩy của Thánh Linh, và như anh em nhà Maccabee đã làm nhiều thế kỷ về sau? Cựu Ước không cho một giải đáp rõ ràng nào về câu hỏi này. Chỉ một vài đoạn văn viết về những can thiệp bạo hành, chẳng hạn như một đoạn trong sách Isaiah nói: “Ta sẽ giẫm nát các dân trong lúc thịnh nộ, Ta đập tan chúng trong cơn lôi đình, và Ta để cho máu chúng chảy chan hòa mặt đất” (Is 63:6). Tuy nhiên, những đoạn khác nhấn mạnh việc xóa bỏ mọi tranh chấp: “Nước này sẽ không tuốt gươm giáo chống lại nước kia cũng không còn huấn luyện chinh chiến” (Is 2:4).
Giải đáp trên đã cho biết cách thức Chúa Thánh Linh hướng dẫn Chúa Giêsu trong sứ mệnh của Ngài: từ Phúc Âm, chúng ta biết Thánh Linh gợi ý Chúa Giêsu khước từ sử dụng vũ khí và bất cứ tham vọng nào của loài người và thực thi chiến thắng vinh quang thần linh bằng phương tiện của lòng quảng đại bác ái vô biên, đổ chính máu Ngài ra để giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Như thế hành động trực tiếp của Chúa Thánh Linh được biểu hiện theo cung cách quyết định.
Buổi gặp chung ngày 17 tháng Giêng năm 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
“Thánh Linh Nâng Đỡ Tôi ...”
Nhắc lại bài giáo lý vừa qua và từ các dữ liệu Phúc Âm đã trưng dẫn, chúng ta có thể thấy khía cạnh tiên tri về hành động mà Thánh Linh (Thần Khí) Thiên Chúa tác động trên các nhà lãnh đạo, các vị quân vương và Đấng Thiên Sai. Khía cạnh này cũng đòi hỏi chúng ta suy niệm thêm nữa, bởi vì lời tiên tri cùng trôi theo dòng lịch sử dân Israel, mà điển hình cho sự kiện trên là vị ngôn sứ tuyệt vời Moses, mà “Chúa đã trực diện đối thoại với ông” (Đnl 34:10). Trải qua bao thế kỷ, dân Israel ngày càng quen với quan niệm song hành: “giáo luật (lề luật) và các ngôn sứ,” là một tổng hợp tiêu biểu tài sản tinh thần mà Thiên Chúa ký thác cho dân Ngài. Chính qua Thánh Linh mà Thiên Chúa đã nói và hoạt động trong các tổ phụ, từ thế hệ này đến thế hệ kia chuẩn bị cho một ngày mới.
Như chúng ta đã thấy rõ hiện tượng tiên tri trong lịch sử nối kết với ngôn từ. Ngôn sứ là người nhân danh Thiên Chúa mà phát ngôn và truyền đạt cho người nghe và người đọc lời các ngài điều Thiên Chúa muốn cho họ biết liên quan đến hiện tại và tương lai. Thánh linh Thiên Chúa làm sinh động và ban sự sống cho ngôn từ. Thánh Linh Thiên Chúa ban cho ngôn sứ và lời tiên tri ơn khích cảm phi phàm, nhờ đó ngôn sứ trở nên linh hoạt và đôi khi nồng nàn thiết tha, đôi khi chồng chất đau khổ, nhưng luôn luôn đầy nghị lực.
Phúc Âm thường mô tả những giai đoạn tiêu biểu rõ ràng khi Thánh Linh Thiên Chúa ngự trên người nào đó, và người đó lập tức ứng khẩu lời tiên tri. Đây là trường hợp ông Balaam: “Thần Linh Thiên Chúa ngự xuống trên ông ta” (Ds 24:2). Khi đó “ông ta cất cao giọng nói: ‘Sấm của người nghe điều Thiên Chúa phán, và biết điều Đấng Tối Cao muốn, lời của người thấy thị kiến của Đấng Toàn Năng, được làm cho xuất thần và cặp mắt vén khỏi màng che ...’” (Ds 24:3-4). Đây là lời tiên tri nổi tiếng, mặc dầu liên quan trực tiếp tới ông Saul (tc. 1 Sam 15:8) và David (tc. 1 Sam 30:1 ff.) trong cuộc chiến chống lại người Amalekites, nhưng cũng nói tới Đấng Thiên Sai: “Tôi thấy Ngài, mặc dầu không phải bây giờ; tôi thấy Ngài, tuy không gần bên; một ngôi sao sẽ mọc lên từ nhà Jacob, một cây gậy mục tử sẽ mọc lên từ nhà Israel ...” (Ds 24:1-7).
Một khía cạnh khác thuộc thần khí tiên tri phục vụ lời nói là làm cho lời tiên tri được truyền thông và hầu như phân chia theo nhu cầu của người nghe. Điều này xảy ra trong trường hợp ông Moses lo lắng về số dân Israel ông phải hướng dẫn và quản trị vào thời đó là “600.000 đàn ông” (Ds 11:12). Chúa truyền cho ông chọn và tập họp “bảy mươi trưởng lão trong dân Israel, nhìn nhận họ là kỳ mục trong dân và quyền hạn của họ” (Ds 11:16). Sau khi việc đó hoàn thành, Chúa “lấy một phần thần khí ở ông Moses mà ban cho bảy mươi kỳ mục đó; và khi thần khí ngự xuống trên họ, họ nói tiên tri ...” (Ds 11:25).
Khi ông Elisah nối tiếp tác vụ của ông Elijah, ông Elisah đã ước muốn được ban cho không kém “hai phần ba thần khí” của đại tiên tri Elijah, gấp đôi phần sản nghiệp dành cho người con trưởng (tc. Đnl 21:17). Ông Elisha xin điều này là để ông được nhìn nhận là thừa kế thần khí chính thức trong số các ngôn sứ và “con trai các ngôn sứ” quy tụ thành phường hội (tc. 2 Vua 2:3). Nhưng thần khí không di truyền như gia nghiệp trần thế từ ngôn sứ này tới ngôn sứ kia; mà chính Thiên Chúa là Đấng ban thần khí. Tuy nhiên, đã có việc thần khí chuyển từ ngôn sứ này sang ngôn sứ kia, và “những con trai của các ngôn sứ” đã nhìn nhận điều đó: “Thần khí nơi ông Elijah đã ngự trên ông Elisha” (2 Vua 2:15; tc. 6:17).
Trong các bang chúng của Israel, không thiếu gì ngôn sứ giả, những người đó họp thành những nhóm đánh đồng thiếp (đồng bóng) đem âm nhạc và vũ điệu thay vào thần khí phát xuất từ Thiên Chúa. Những ngôn sứ giả đó thuộc tôn giáo Baal. Ông Elijah đã phát động trận chiến quyết định chống lại các ngôn sứ đó (1 Vua 18:25-29), và đạt được địa vị cao cả của ông. Về phần ông Elisha, ông tiếp xúc nhiều hơn với một số người có vẻ tỉnh ngộ thuộc nhóm Baal (tc. 2 Vua 2:3).
Theo truyền thống nguyên thủy trong Sách Thánh, quan niệm đích thực về ngôn sứ được bảo vệ và khẳng định là người nói lời Thiên Chúa, được Thiên Chúa chỉ định, ngang hàng và theo hệ thống dọc từ ông Moses (tc. Đnl 18:15f). Thiên Chúa hứa với ông Moses: “Ta sẽ lập cho chúng một ngôn sứ giống như ngươi giữa anh em của chúng và Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng nó. Nó sẽ nói điều Ta truyền” (Đnl 18:18). Kèm theo lời hứa này là sự cảnh cáo nhằm loại bỏ những lạm dụng lời tiên tri: “Nếu ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nó nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết. Nếu các ngươi tự hỏi, ‘Làm cách nào chúng tôi biết được lời nào là lời Thiên Chúa đã không phán? Nếu điều ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà nói nhưng không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời Thiên Chúa đã phán; ngôn sứ đó đã nói càn’” (Đnl 18:20-21).
Một khía cạnh khác của tiêu chuẩn trên đây để xét xử là lòng trung tín với giáo thuyết về Thiên Chúa được ban cho dân Israel qua việc chống lại sự quyến rũ của việc thờ ngẫu thần (tc. Đnl 13:2 f.). Điều này giải thích sự quyết liệt chống đối các ngôn sứ giả (tc. 1 Vua 22:6 ff.; 2 Vua 3:1; Jer 2:26; 5:13; 23:9-40; Mi 3:11; Zech 13:2). Bổn phận ngôn sứ, với tư cách người của lời Thiên Chúa, là phải chống lại “thần khí sự dối trá” nơi môi miệng các ngôn sứ giả (tc. 1 Vua 22:23), ngõ hầu bảo vệ dân chúng khỏi bị ảnh hưởng của họ. Nhiệm vụ đó nhận được từ Thiên Chúa, như ngôn sứ Ezekiel nói: “Vì thế lời Thiên Chúa đến với tôi: ‘hỡi con người, hãy nói tiên tri chống lại các ngôn sứ Israel, hãy nói tiên tri đi! Hãy nói với những người nói tiên tri theo ý riêng của chúng: Hãy nghe lời Chúa: Khốn thay những ngôn sứ điên khùng, những kẻ theo thần khí riêng của mình và không được thị kiến’” (Ez 13:2-3).
Vì là người nói lời Thiên Chúa, ngôn sứ cũng phải là “một người thần khí,” như tiên tri Hosea đã có lần nói về mình (9:7). Nếu ngôn sứ phải nói nhân danh Thiên Chúa thì ngôn sứ phải có Thần Linh Thiên Chúa, mà không phải là thần khí của riêng mình.
Hơn hết, ý niệm trên đây được ngôn sứ Ezekiel khai triển, ông được ban cho ơn nhận thức ý nghĩa sâu xa của lời tiên tri. Để nói nhân danh Thiên Chúa cần phải có Thánh Linh Thiên Chúa hiện diện nơi vị ngôn sứ. Sự hiện diện này được biểu lộ trong cuộc tiếp xúc mà ngôn sứ Ezekiel gọi là “thị kiến.” Trong những người được ban ơn đó, hoạt động của Thánh Linh Thiên Chúa bảo đảm sự thật về những lời loan báo. Sự kiện trên đây cho chúng ta thấy một chỉ dẫn mới về mối liên hệ giữa lời Thiên Chúa và thần khí, mối liên hệ theo ngữ học và có tính cách khái niệm dọn đường cho sự liên kết giữa Ngôi Lời và Chúa Thánh Linh trong Tân Ước.
Ngôn sứ Ezekiel ý thức việc chính ông được Thánh Linh hướng dẫn, ông viết: “Thánh Linh (Thần Khí) ngự vào trong tôi, Thánh Linh làm cho tôi đứng dậy và tôi nghe tiếng Ngài nói với tôi” (Ez 2:2). Như thế có thể nói Thánh Linh ngự vào trong con người ngôn sứ. Thánh Linh làm cho ông Ezekiel đứng dậy: vì thế làm cho ông trở nên một nhân chứng lời Thiên Chúa. Thánh Linh nâng ông Ezekiel lên và đẩy ông hoạt động: “Thánh Linh nâng tôi lên ... và đưa tôi đi” (Ez 3:12-14). Như thế năng động tính của Thánh Linh tự hiển lộ (tc. Ez 8:3; 11:1,5,24: 43:5). Hơn nữa, ngôn sứ Ezekiel minh xác rằng ông nói về “Thánh Linh của Thiên Chúa” (11:5).
Thánh Linh đã ảnh hưởng mãnh liệt đến hành động và lời nói của các ngôn sứ Haggai và Zechariah trong việc các ngài tích cực thúc đẩy dân Israel làm việc để tái thiết Đền Thờ Jerusalem sau khi từ chốn lưu đày trở về. Kết quả lời tiên tri thứ nhất của ông Haggai là “Chúa đánh động tinh thần người cai quản xứ Juda, ông Zerubbabel ... và tinh thần thượng tế Joshua ... và tinh thần tất cả mọi người khác còn lại, để họ bắt tay tái thiết nhà Chúa các thiên thần” (Hg 1:14). Trong lời tiên tri thứ hai, ngôn sứ Haggai lần nữa can thiệp và hứa sự giúp đỡ mạnh mẽ của Thánh Linh Thiên Chúa: “Can đảm lên hỡi Zerubbabel ... Can đảm lên, hỡi Joshua ... Can đảm lên, hỡi toàn dân trong nước, Chúa phán ... thần khí của Ta sẽ ở với các ngươi, đừng sợ” (Hg 2:4-5). Ngôn sứ Ezekiel cũng loan báo tương tự: “Đây là lời Chúa nói với Zerubbabel: Chúa các đạo binh phán: ‘không phải bằng bất cứ quân đội nào, cũng chẳng với sức mạnh nào, mà bằng thần khí của Ta’” (Zech 4:6).
Chẳng bao trước ngày Chúa Giêsu giáng trần, không còn thấy bóng dáng một ngôn sứ nào nữa trong dân Israel và cũng không ai biết tình trạng đó kéo dài bao lâu (tc. Tv 74:9; 1 Macc 9:27). Dẫu vậy một trong các ngôn sứ cuối cùng là ông Joel đã loan báo sẽ xảy ra việc tuôn đổ Thánh Linh Thiên Chúa cho khắp muôn người “trước ngày Chúa đến, ngày vĩ đại kinh hoàng” (Joel 3:4). Thánh Linh Thiên Chúa phải được hiển lộ qua việc mở rộng cách đặc biệt ơn tiên tri. Chúa đã loan báo qua sứ giả của Ngài: “Ta sẽ tuôn đổ thần khí của Ta trên toàn thể nhân loại; con trai con gái các ngươi sẽ thành ngôn sứ; người già có những giấc mơ và người trẻ sẽ thấy những thị kiến” (Joel 3:1). Vì thế cuối cùng điều ước muốn mà ông Moses hằng ấp ủ từ nhiều thế kỷ trước đã thành sự thật: “Phải chăng toàn dân Chúa đều là ngôn sứ và phải chăng Chúa đã ban thần khí Ngài trên tất cả mọi người” (Ds 11:29). Như thế ơn nói tiên tri có thể đến với “những người nô lệ, cả nam và nữ” (Joel 3:2), vượt qua mọi phân biệt trình độ văn hoá hoặc hoàn cảnh xã hội. Vì thế ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người: “Bất cứ người nào kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ” (Joel 3:5).
Như chúng ta thấy trong bài giáo lý trước, lời tiên tri trên đây của ngôn sứ Joel đã hoàn tất trong ngày Lễ Hiện Xuống. Nhìn vào đám đông ngỡ ngàng, thánh Tông Đồ Phêrô nhắc lại lời ngôn sứ (Joel) và tuyên bố: “Điều ngôn sứ Joel tiên báo bây giờ đã hoàn thành” (tc. Cv 2:16-21), giải thích rằng Chúa Giêsu, “được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, đã nhận được Chúa Thánh Linh mà Chúa Cha đã hứa và trút đổ ra “cách dồi dào” (tc. Cv 2:33). Thế là từ ngày đó trở đi, hành động tiên tri của Chúa Thánh Linh đã liên tục soi đường chỉ lối, ủi an Giáo Hội.
Buổi gặp chung ngày 14 tháng Giêng, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh Là Đấng Thánh Hóa
Theo Phúc Âm, Thánh Linh Thiên Chúa không những chỉ là ánh sáng chiếu soi bằng cách ban sự hiểu biết và linh ứng lời tiên tri, mà cũng là sức mạnh thánh hóa. Thánh Linh Thiên Chúa truyền thông sự thánh thiện, vì chính Ngài là “Thần Linh sự thánh thiện,” là “Chúa Thánh Linh.” Tước hiệu này được đặc quy về Thần Khí Thiên Chúa trong chương 63 Sách Isaiah, trong bài thơ dài hoặc thánh vịnh dành riêng chúc tụng ân sủng của Đức Yahweh và lên án việc dân chúng đi lạc đường suốt dòng lịch sử dân Israel, khi tác giả nói “chúng nổi loạn và làm phiền Thánh Linh” (Is 63:10). Nhưng tác giả nói thêm, sau khi Thiên Chúa đã trừng phạt, “chúng nhớ lại những ngày xưa kia và ông Moses là tôi tớ của Ngài,” và chúng ngạc nhiên hỏi: “Đâu rồi Đấng đặt thần khí của Ngài giữa chúng?” (Is 63:11).
Tước hiệu Thánh Linh cũng được nhắc tới trong Thánh Vịnh 51, khi cầu xin ơn tha thứ và lòng thương xót của Chúa (Misere mei Deus, secundum, misericordiem tuam), tác giả nài xin: “Xin đừng xua đuổi con khỏi thánh nhan Ngài cũng đừng lấy Thánh Linh của Ngài khỏi con” (Tv 51:13). Đây là một dẫn chiếu về nguyên tắc căn bản của sự thiện hoạt động trong nội tâm, đưa dẫn người ta tới “thần khí của sự thánh thiện”.
Sách Khôn Ngoan xác nhận tính vô song của Chúa Thánh Linh đối với sự thiếu chân thành và công chính: “Thánh Linh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lừa lọc, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tởm những chuyện bất công” (Kn 1:5). Điều này diễn tả mối liên hệ hết sức mật thiết giữa sự khôn ngoan với Thánh Linh. Tác giả được thần ứng nói: nơi đức khôn ngoan “có một thần khí tinh tường và thánh thiện” (Kn 7:23), vì thế đức khôn ngoan “tinh tuyền” và “chuộng điều lành.” Thần khí này chính là Thánh Linh Thiên Chúa, vì Ngài “toàn năng và thấu suốt mọi sự” (Kn 7:23). Nếu không có “Thánh Linh của Thiên Chúa” (tc. Kn 9:17) “gửi từ trời cao tới,” nhân loại không thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa (Kn 8:13-17) và càng ít trung thành thể hiện thánh ý Ngài.
Trong Cựu Ước, cần thiết tính của sự thánh thiện nối kết mật thiết với chiều kích văn hóa và tư tế trong đời sống dân Israel. Việc thờ phượng phải thực hiện tại địa điểm “thánh,” nơi Thiên Chúa chí thánh ngự (tc. Is 6:1-4). Đám mây là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện (tc. Xh 40:34-35; 1 Vua 8: 10-11). Mọi thứ: lều tạm, Đền Thờ, bàn thờ và các tư tế mà ông Aaron là người tiên khởi được thánh hiến (tc. Xh 29:1 ff.), phải đáp ứng các đòi hỏi “thánh.” “Thánh” ví như vòng hào quang chỉ sự kính trọng và tôn kính tạo chung quanh người ta, các nghi lễ và vị trí ưu tiên dành cho việc thờ phượng hoặc liên quan tới Thiên Chúa.
Một vài văn bản Phúc Âm xác nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong lều tạm nơi sa mạc và ở Đền Thờ Jerusalem (Xh 25:8,40; 40:34-35; 1 Vua 8:10-13, Ez 43:4-5). Trong tường thuật Vua Salomon dâng hiến Đền Thờ, một lời cầu nguyện cũng được kể lại ý hoài nghi nhà vua: “Phải chăng thật sự là Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người trên địa cầu này không? Nếu chốn cao xanh và những tầng trời cao nhất còn không dung giữ được Ngài, huống hồ chi ngôi Đền Thờ (nhỏ bé) này mà con đã xây dựng?” (1 Vua 8:27). Trong Công Vụ Tông Đồ, phó tế Stephen mô tả cũng niềm kiên tín đó đối với Đền Thờ: “Tuy nhiên Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do người phàm xây dựng” (Cv 7:48).
Lý do về niềm kiên tín dẫn thượng được chính Chúa Giêsu giải thích khi nói với người phụ nữ Samaria: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những người tôn thờ Ngài phải tôn thờ trong tinh thần và sự thật (chân lý)” (Jn 4:24). Một ngôi nhà xây dựng bằng vật liệu không thể nhận đầy đủ hành động thánh hiến của Chúa Thánh Linh và vì thế không thể thực sự là “nơi Thiên Chúa ngự.” Ngôi nhà đích thực của Thiên Chúa phải là “ngôi nhà tinh thần (ngôi nhà thiêng liêng),” như Thánh Phêrô nói, được kiến tạo bằng “những tảng đá sống động,” nghĩa là những người nam và nữ đã được Chúa Thánh Linh thánh hiến nội tâm (tc. 1 Pet 2:4-10; Eph 2:21-22).
Bởi thế, theo lời tiên tri danh tiếng của ngôn sứ Ezekiel, Thiên Chúa hứa ban ơn Thánh Linh trong tâm hồn: “Ta sẽ minh chứng danh thánh vĩ đại của Ta, đã bị xúc phạm giữa muôn dân, giữa chúng (các dân nước đó) các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta ... Ta sẽ thanh tẩy các ngươi khỏi mọi ô uế và tà thần; Ta sẽ cho các ngươi trái tim mới và đặt Thần Khí mới của Ta vào lòng các ngươi ... Ta sẽ đặt Thánh Linh của Ta trong các ngươi ...” (Ez 36:23-27). Kết quả của hồng ân lạ lùng này là sự thánh thiện kiên trì, sống chân thành gắn bó với thánh ý Thiên Chúa. Nhờ sự hiện diện mật thiết của Chúa Thánh Linh, mọi trái tim sẽ thuận thảo đối với Thiên Chúa và đời sống của người tín hữu sẽ phù hợp lề luật Chúa.
Thiên Chúa phán: “Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta trong các ngươi và Ta sẽ làm cho các ngươi sống theo thánh luật của Ta và sẽ làm cho các ngươi tuân giữ thánh luật của Ta và thực hành các luật đó” (Ez 36:27). Như thế Thánh Linh thánh hóa toàn thể sự hiện hữu của nhân vị (the entire existence of the human person).
“Thần dối trá” chống lại Thánh Linh Thiên Chúa (tc. 1 Vua 22:21-23); “thần ô uế” chế ngự các cá nhân và dân tộc, khiến họ cúi đầu trước tà thần (ngẫu tượng). Theo lời tiên tri về việc giải phóng Jerusalem chép trong sách ngôn sứ Zachariah, trong bối cảnh thiên sai, chính Chúa hứa làm cho người ta trở lại và khiến thần ô uế biến mất: “Vào ngày đó ... Ta sẽ hủy diệt tên các ngẫu thần khỏi đất ... Ta cũng sẽ xua đuổi những ngôn sứ và thần ô uế khỏi miền đất ...” (Zech 13:1-2; tc. Jer 23:9 f.; Xh 13:2 ff.).
Chúa Giêsu chống lại “thần ô uế” (tc. Lc 9:42; 11:24). Về điều này, Chúa Giêsu nói tới sự can thiệp của Thánh Linh Thiên Chúa: “Nếu tôi nhờ Thánh Linh Thiên Chúa mà xua trừ ma quỉ, thì nước Thiên Chúa đã đến với các ông rồi” (Mt 12:28). Chúa Giêsu hứa với các môn đệ sự trợ giúp của “Đấng An Ủi,” Đấng “sẽ lên án thế gian ..., vì thủ lãnh thế gian đã bị kết án rồi” (Jn 16:8-11). Thánh Phaolô nói về Thần Khí xét xử theo lòng tin và tình yêu (tc. Gal 5:5-6), vạch rõ những gì là “công việc của xác thịt” và “hoa trái của thần khí” (tc. Gal 5:19 ff.), giảng dạy đời sống mới “theo Thần Khí”; Thần Khí mới mà các ngôn sứ đã nói.
Chúng ta đã đề cập tới và bây giờ cần phải nhắc lại lời ngôn sứ Isaiah nói rằng tất cả những cá nhân hoặc dân tộc theo thứ thần chống lại Thiên Chúa, “làm đau lòng” Thánh Linh Thiên Chúa. Chúng ta tìm thấy lời diễn tả trên đây trong phần thường gọi là Trito-Isaiah về lịch sử Israel: “Không phải người đưa tin cũng chẳng phải thiên thần, mà chính Ngài (Thiên Chúa) đã cứu họ. Vì yêu mến và xót thương mà chính Ngài đã cứu chuộc họ, nâng họ lên và cưu mang họ suốt thời gian quá khứ. Nhưng họ nổi loạn và làm đau lòng Thánh Linh của Ngài” (Is 63:9-10). Ngôn sứ đối chiếu lòng nhân từ đại lượng và tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân Ngài với sự vong ân bội bạc của họ. Trong cách mô tả nhân hình luận quy gán cho Thánh Linh Thiên Chúa sự đau buồn vì bị dân chúng bỏ rơi theo tâm lý loài người.
Tuy vậy, theo ngôn từ tiên tri dẫn thượng, chúng ta có thể nói tội của chúng ta làm buồn lòng Thần Khí Thiên Chúa cách đặc biệt vì Thần Khí này là thánh: tội phạm đến sự thánh thiện thần linh. Tội đó còn nặng nề hơn vì thần khí thánh của Thiên Chúa không những đã được đặt nơi ông Moses tôi tớ của Ngài (tc. Is 63:11), mà cũng được ban cho ông với tư cách người hướng dẫn dân Ngài xuất hành khỏi Ai cập (tc. Is 63:14) như là dấu chỉ và lời hứa ơn cứu độ mai hậu: “và chúng đã nổi loạn ...” (Is 63:10).
Với tư cách người thừa kế quan niệm và ngôn từ này của ngôn sứ Isaiah, Thánh Phaolô cũng khuyến cáo Kitô hữu tại Ephesus: “Anh chị em đừng làm buồn lòng Thánh Linh Thiên Chúa mà với Ngài anh chị em đã được đóng ấn để chờ ngày cứu độ” (Eph 4:30; 1:13-14).
Cách diễn tả: “làm buồn lòng Chúa Thánh Linh” cho thấy rõ dân chúng thời Cựu Ước đã dần dần tiến từ quan niệm về sự thánh thiện, một hình thức có vẻ ngoại tại hơn, tới khát vọng sự thánh hóa được thể hiện nội tại nhờ Thánh Linh Thiên Chúa.
Việc sử dụng tước hiệu “Chúa Thánh Linh” ngày càng nhiều cho thấy sự tiến hóa này. Hầu hết các Sách Thánh thời xưa không có danh hiệu này. Danh hiệu này xuất hiện từ từ, chính vì danh hiệu đó nói về vai trò Chúa Thánh Linh trong việc thánh hóa các tín hữu. Trong nhiều phần khác nhau, thánh ca Qumran cảm tạ Thiên Chúa vì việc thanh tẩy nội tại được thể hiện nhờ Chúa Thánh Linh (chẳng hạn Những Ca Vịnh từ Hốc đá I ở Qumran, 16:12; 17:26 = Hymns from the First Cave of Qumran, 16:12; 17:26).
Ước vọng mãnh liệt của người tín hữu không còn chỉ là được giải phóng khỏi những kẻ áp bức, như trong thời các Thủ Lãnh (Judges), nhưng hơn hết là có thể phục vụ Chúa “trong sự thánh thiện và công chính, ở trước mặt Ngài ngày ngày suốt đời chúng tôi” (Lc 1:75). Muốn việc này xảy ra cần phải có ơn thánh hóa của Chúa Thánh Linh.
Phúc Âm trả lời cho ước nguyện này. Điều có ý nghĩa quan trọng là, trong cả bốn Phúc Âm, từ ngữ “thánh” xuất hiện lần đầu tiên liên hệ với Thánh Linh, cả khi nói về sự chào đời của Thánh Gioan Tẩy Giả, việc Chúa Giêsu giáng sinh (Mt 1:18-20; Lc 1:15-25), và lời loan báo Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh (Mc 1:8; Jn 1:33). Trong lời tường thuật thiên sứ Gabriel báo cho Đức Maria thánh ý Thiên Chúa muốn Người cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Trinh Nữ Maria nghe những lời thiên sứ Gabriel: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ ... vì Đấng sẽ được sinh ra là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Như thế hành động thánh hóa chính yếu của Chúa Thánh Linh đã bắt đầu, và cũng được an bài lan tràn tới khắp mọi người.
Buổi gặp chung ngày 21 tháng Hai, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Thánh Linh Thiên Chúa Thanh Tẩy
Trong bài giáo lý trước, chúng ta đã trích một vế Thánh Vịnh 51 mà trong đó thánh vịnh gia, thống hối tội lỗi khốn nạn của mình, nài xin Thiên Chúa thương xót và: “Xin Chúa đừng lấy đi Thánh Linh (của) Chúa khỏi con” (câu 13). Thánh Vịnh đó là kinh Xin Thương Xót (Miserere) rất nổi tiếng thường được nhắc lại trong phụng vụ, cũng như trong nghi thức thống hối của các Kitô hữu. Thánh Vịnh 51 diễn tả tâm tình thống hối, tín thác và khiêm tốn sau khi đã phạm tội, tâm tình đó rất dễ đến trong “con tim thống hối và khiêm tốn” (Tv 51:19). Theo truyền thống các Giáo Phụ và các tác giả sách tu đức Kitô Giáo thì Thánh Vịnh 51 đáng được học hỏi và suy niệm; Thánh Vịnh này cho chúng ta những kích thước mới về ý niệm “Thánh Linh Thiên Chúa (divine spirit)” trong Cựu Ước. Thánh Vịnh 51 giúp chúng ta chuyển dịch giáo thuyết thành ra thực hành thiêng liêng và thần học tu đức khổ chế.
Những ai theo dõi những trưng dẫn các lời tiên tri trong bài giáo lý trước sẽ thấy dễ dàng khám phá ra tính cách liên hệ mật thiết của kinh Xin Thương Xót (Miserere) với những kinh văn đó, đặc biệt là những lời trong sách Isaiah và Ezekiel. Cảm tưởng đứng trước mặt Thiên Chúa trong chính hoàn cảnh tội lỗi, trong đoạn văn về thống hối của Isaiah (59:12; tc. Ez 6:9)71 và cảm tưởng về trách nhiệm cá nhân được nói kỹ trong Ezekiel (18:1-32) đều có trong Thánh Vịnh 51 này. Trong bối cảnh về kinh nghiệm tội lỗi và nhu cầu cảm thấy mãnh liệt phải ăn năn hối cải, thánh vịnh gia xin Thiên Chúa ban ơn thanh tẩy trái tim cùng với tinh thần được đổi mới. Như thế, hành động của Thánh Linh Thiên Chúa thể hiện những khía cạnh kiên vững hơn và lời cam kết đúng đắn hơn trên mức độ nào đó của điều kiện hiện sinh của một cá nhân.
Thánh vịnh gia van nài Chúa thương xót để được thanh tẩy khỏi tội lỗi: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con! Xin xóa sạch tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, và mọi tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy!” (Tv 51:3-4). “Xin dùng ngành hương thảo tẩy sạch tội lỗi con; xin rửa con và con sẽ trắng hơn tuyết” (câu 9). Nhưng thánh vịnh gia biết sự tha thứ của Thiên Chúa không thể được thu nhỏ tới việc giản dị là ngưng việc kết tội bên ngoài, mà không có việc đổi mới bên trong: sự việc đó chắc chắn rằng nhân loại không thể tự mình làm được. Vì thế thánh vịnh gia xin: “Lạy Thiên Chúa, xin tạo trong con trái tim thanh sạch, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng xua đuổi con ra khỏi thánh nhan Chúa, và xin đừng rút Thánh Linh (của) Chúa khỏi con. Xin cho con lại được hân hoan vui mừng vì được Ngài cứu độ, và nâng đỡ con bằng tinh thần quảng đại” (cc 12-14).
Cách chọn chữ của thánh vịnh gia thật là ý nghĩa: ngài xin cho việc tạo dựng, tức là tác động sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng với chủ ý tạo dựng một sự hữu mới (new being). Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo dựng (bara), tức là làm cho thứ gì mới hiện hữu (tc. Stk 1:1; Xh 34:10; Is 48:7; 65:17; Jer 31:21-22). Chỉ một mình Thiên Chúa có thể ban cho trái tim tinh tuyền, hoàn toàn thanh sạch để tất cả mọi ước nguyện của trái tim hợp với thánh ý Ngài. Chỉ một mình Thiên Chúa có thể đổi mới phần thâm sâu của con người, biến đổi con người từ bên trong, làm cho ngay thẳng chiều hướng căn bản đời sống đạo giáo và lương tâm. Theo danh từ thần học và chính tín điều (tc. DS 1521-1522; 1560): chỉ một mình Thiên Chúa có thể công chính hóa người tội lỗi, điều này được chuyển dịch theo cách nói của ngôn sứ là: “xin ban cho một trái tim mới” (Tv 51:12).
Kế đến là xin “Một tinh thần chung thủy” (Tv 51:12) và phun tưới uy lực của Thiên Chúa vào tinh thần nhân loại, xin được giải thoát khỏi sự yếu đuối về luân lý mà trong lòng cảm thấy những biểu hiện tội lỗi. Sở dĩ có sức mạnh và lòng chung thủy này là nhờ sự hiện diện của Thánh Linh Thiên Chúa, vì thế nên thánh vịnh gia van nài: “Xin đừng lấy Thánh Linh của Chúa ra khỏi con.” Sự kiện này là lần duy nhất mà chúng ta tìm thấy cách diễn tả “Thánh Linh của Thiên Chúa” trong các thánh vịnh. Khi nghiền ngẫm lịch sử Israel trong Cựu Ước, chúng ta cũng tìm thấy lời nói về Thánh Linh trong sách Isaiah. Ngôn sứ Isaiah đã than khóc với Thiên Chúa về sự nổi loạn mà “họ đã làm buồn lòng Thánh Linh” (Is 63:10), và nhớ lại ông Moses, người đã được Thiên Chúa “trao ban Thánh Linh vào nội tâm ông” (Is 63:11).
Thánh vịnh gia ý thức sự hiện diện gần gũi của Thần Linh Thiên Chúa là nguồn liên tục ban sự thánh thiện, nên thánh gia đã van nài: “Xin đừng lấy Thánh Linh của Chúa ra khỏi con!” Thế nên lời van xin tương tự khác nữa là “Xin đừng xua đuổi con lìa xa thánh nhan Chúa” giúp chúng ta hiểu thấu lòng kiên tín của thánh vịnh gia về việc có Thánh Linh Thiên Chúa được nối liền với sự hiện diện Thần Linh trong thâm sâu tâm hồn con người. Nếu bị Thiên Chúa xua đuổi xa khỏi sự hiện diện của Ngài thì thật sự là một điều đại bất hạnh. Nếu Chúa Thánh Linh ở trong con người thì con người có mối giao tình với Thiên Chúa, mà không còn phải là “mặt giáp mặt” như đối diện để chiêm ngắm, nhưng trong chính mình có sức mạnh Thần Linh hướng dẫn thế cách cư xử của mình.
Sau khi van nài Thiên Chúa đừng lấy đi Thánh Linh, thánh vịnh gia xin phục hồi lại sự hân hoan. Trước đó thánh vịnh gia đã cầu xin cũng ơn hồi phục này, khi ngài xin Thiên Chúa ban ơn thanh tẩy, hy vọng trở nên “trắng hơn tuyết”; “Xin làm cho con được vui mừng hân hoan; những xương cốt Ngài đã đạp nát cững sẽ nhảy múa tưng bừng trở lại” (Tv 51:10). Nhưng trong tiến trình tư duy tâm lý đã làm nảy sinh ra lời cầu nguyện, thánh vịnh gia cảm thấy rằng muốn hưởng được niềm vui này trọn vẹn thì thanh tẩy mọi tội lỗi cũng chưa đủ. Mà điều cần thiết là phải tái tạo một trái tim mới, một tinh thần chung thủy nối kết với sự hiện diện của Thánh Linh Thiên Chúa. Chỉ khi đó thánh vịnh gia mới có thể van nài: “Xin cho con niềm vui được Ngài cứu độ!”
Sự hân hoan là cốt lõi trong việc đổi mới đã đề cập trong “việc tạo dựng một trái tim mới.” Sự kiện đó cũng là kết quả của việc tái sinh mà Chúa Giêsu đã giảng giải trong dụ ngôn người con đi hoang. Người vui mừng thứ nhất là người cha vì đã tha thứ và muốn chia sẻ niềm hân hoan với mọi người (tc. Lc 15:20-32).
Song song với sự vui mừng, thánh vịnh gia còn xin thêm “một tinh thần nồng nàn” nữa, nghĩa là một sự dấn thân can đảm. Thánh vịnh gia xin tinh thần can đảm dấn thân nơi Đấng, mà theo Sách Isaiah, đã hứa cứu độ kẻ yếu đuối: “Ta ngự chốn cao vời thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn tan nát buồn phiền, làm sống lại tinh thần con người sầu khổ và những tâm hồn tan nát” (Is 57:15).
Sau khi xin điều này, thánh vịnh gia lập tức thêm lời cam kết dấn thân phụng thờ Thiên Chúa thay cho những người tội lỗi, xin cho họ ơn ăn năn thống hối: “Con sẽ dạy người tội lỗi đường lối của Ngài để họ trở lại với Ngài” (Tv 51:15). Lại thêm một yếu tố đặc thù khác nữa trong tiến trình nội tâm chân thành đã giũ sạch mọi lầm lỗi. Một trái tim như thế cũng ước muốn giành thêm sự tha thứ cho người khác nữa và thúc đẩy những kẻ tội lỗi ăn năn thống hối. Và những sự kiện trên cũng là mục đích mà chính trái tim đó hứa hẹn quyết tâm hành động. “Điều cam kết tinh thần” này nơi một người thống hối và được tha thứ tràn ra sự hiện diện của “Thánh Linh Thiên Chúa” và là dấu chỉ sự hiện diện đó. Trong tinh thần phấn khởi của việc ăn năn thống hối và nhiệt thành dấn thân, thánh vịnh gia trình bày với Thiên Chúa lòng xác tín liên quan đến kết quả các hành động riêng của mình. Đối với thánh vịnh gia thì sự việc hầu như chắc chắn xảy ra là “những người tội lỗi sẽ trở lại với Chúa.” Cũng cần phải kể thêm sự hiện hữu uy lực nội tại của Chúa Thánh Linh đóng vai trò tích cực.
Sự suy diễn mà thánh vịnh gia mô tả có tầm mức giá trị hoàn vũ: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm con dâng là một tinh thần thống hối, một trái tim ăn năn hối hận và khiêm tốn. Lạy Thiên Chúa, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:19). Với tính cách tiên tri, thánh vịnh gia có viễn kiến sẽ đến ngày mà trong thành Jerusalem được trùng tu, mọi lễ vật được dâng hiến trên bàn thờ trong đền thánh theo lề luật sẽ được chấp nhận (tc. cc 20-21). Việc xây dựng lại các tường thành Jerusalem sẽ là dấu chỉ Thiên Chúa đã tha thứ, như các ngôn sứ Isaiah (tc. câu 60:1 ff; 62:1 tt.), Jeremiah (tc. 30:15-18) và Ezekiel (tc. 36:33) đã tiên báo. Nhưng sự kiện còn có giá trị lớn lao hơn nữa là “tế phẩm tinh thần” của người khiêm tốn xin tha thứ, mà Thánh Linh soi lòng ăn năn thống hối và cầu nguyện, không bị lấy mất đi khỏi người đó (tc. Tv 51:13).
Rõ ràng từ phần trình bày vắn gọn những chủ điểm căn bản này, đối với chúng ta Thánh Vịnh Xin Thương Xót (Miserere) không những chỉ là một lời cầu nguyện đẹp mà còn là chỉ dẫn trong đời sống khắc kỷ thống hối. Thánh Vịnh Xin Thương Xót còn minh chứng trình độ phát triển đạt được trong Cựu Ước về ý niệm “Thần Khí Thiên Chúa (Divine Spirit),” như ý niệm đó dần dần trở nên gần gũi hơn điều sẽ được mạc khải về Chúa Thánh Linh trong Tân Ước.
Vì thế Thánh Vịnh Kinh Thương Xót là một chương lớn của lịch sử đời sống tâm linh trong Cựu Ước, trong cuộc lữ hành, mặc dầu trong bóng mờ nhưng vẫn hướng về Jerusalem mới là nơi Chúa Thánh Linh ngự.
Buổi gặp chung ngày 28 tháng Hai, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Thánh Linh, Ngôi Lời và Đấng Khôn Ngoan
Trong Cựu Ước các ngôn sứ đặc biệt nhấn mạnh đến mối tương quan giữa “Lời” và “Thần Khí (Thánh Linh).” Nhờ Thánh Linh, các ngôn sứ phát biểu nhân danh Thiên Chúa. Chính Sách Thánh xuất phát do ngôn từ và hành động của Thánh Linh qua mọi thời đại. Lời Sách Thánh là thánh vì Thánh Linh tác hiệu lời (làm cho lời có hiệu lực) qua ngôn từ và ký tự.
Ngay cả ở một số người không phải là ngôn sứ cũng được Chúa Thánh Linh trao ban thần khí khiến họ có thể ứng khẩu. Sử Biên Niên I kể lại “những người dũng cảm” nhìn nhận vương quyền của David và tập hợp chung quanh ông (David). “Chúng tôi thuộc về ngài ... Chúc bình an, bình an với ngài, và bình an cho người nào giúp đỡ ngài; Thiên Chúa của ngài chính là Đấng giúp đỡ ngài.” Và “David thu nhận họ vào số những người lãnh đạo (trong) đoàn quân của ông” (1 Sbn 12:19). Chúa Giêsu nhắc lại một thí dụ khác xúc động hơn nữa trong Sử Biên Niên II (tc. Mt 23:35; Lc 11:51). Sự việc này xảy ra khi việc thờ phượng trong đền thánh suy giảm và dân Israel chạy theo cám dỗ thờ ngẫu thần. Khi các ngôn sứ mà Thiên Chúa đã phái đến với dân Israel để kêu gọi họ trở lại với Ngài đều bị họ bỏ ngoài tai: “Khi đó Thần Khí nhập vào Zachariah, con của tư tế Jehoiada. Ông Zachariah đứng nói với dân chúng: ‘Thiên Chúa phán, “Tại sao các người xúc phạm các giới răn Chúa, để các ngươi bị khốn khổ? Vì các người đã bỏ Chúa, nên Ngài bỏ các ngươi.’” Nhưng họ cùng nhau chống lại ông Zachariah, và theo lệnh nhà vua họ đã ném đá giết ông tại tiền đình đền thờ Chúa” (2 Sbn 24:20-21). Đây là những thí dụ điển hình về tính cách liên hệ giữa Thần Khí (Thánh Linh) và “lời,” hiện diện trong tâm trí và ngôn từ (từ vựng) của người Israel.
Trong Sách ngôn sứ Daniel có một kết nối tương tự khác nữa là sự liên kết giữa Thần Khí và sự khôn ngoan mà Vua Nebuchadnezzar thốt lên. Khi nhà vua kể lại giấc mơ của mình và ngôn sứ Daniel giải thích ý nghĩa giấc mộng đó, nhà vua nhìn nhận vị ngôn sứ là “một người có thần khí của Thiên Chúa” (Dan 4:5; đc. 4:6, 15; 5:11), nghĩa là ơn thần ứng, mà vua Pharaoh trước kia cũng đã nhìn nhận nơi ông Giuse vì lời cố vấn khôn ngoan của ông (tc. Stt 41:38-39). Trong ngôn ngữ ngoại giáo vua thành Babylon đã nói đi nói lại về “thần khí của các vị thần thánh,” nhưng khi kết thúc nhà vua nói về “vị vua trời” (Dan 4:34) ở số ít (in the singular). Dù sao chăng nữa, vua Belahazzar đã nhìn nhận một Vị Thần Linh hiển lộ trong ngôn sứ Daniel và nhà vua tuyên bố: “Trẫm đã nghe thần khí của các vị thần linh ở trong ngươi, và nhà ngươi có kiến thức mẫn tiệp và khôn ngoan xuất chúng” (Dan 5:14). Và tác giả Sách ngôn sứ Daniel nhấn mạnh: “Daniel vượt trên tất cả các thừa tướng và các vị bảo quốc, vì trong ông có một Thần Khí siêu đẳng, và nhà vua định đặt ông cai trị toàn thể vương quốc” (Dan 6:3).
Người ta cũng nói nhiều đến “Sự khôn ngoan xuất chúng” và “tinh thần siêu việt” của ông Daniel. Những người này làm chứng về mối liên hệ giữa những tài năng trong Do Thái giáo vào thế kỷ thứ hai trước Chúa giáng sinh (khi sách Daniel được viết ra) để củng cố lòng tin và hy vọng của dân Israel, những người đó đang chịu sự ngược đãi của Anytiochus Epiphanes.
Trong Sách Khôn Ngoan, một văn bản được biên soạn hầu như trước thềm Tân Ước, tức là vào hạ bán thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, theo một số tác giả cận đại và những người theo văn hóa Hy Lạp (Hellenistic): mối liên kết giữa sự khôn ngoan và thần khí được nhấn mạnh đến độ cả hai hầu như là một. Từ khởi đầu chúng ta thấy “đức khôn ngoan là một thần khí nhân ái” (Kn 1:6). Đức khôn ngoan hiển lộ và thông ban qua uy lực nhân ái căn bản đối với con người. Nhưng thần khí nhân ái này không mù quáng cũng không nhân nhượng sự dữ nơi người ta, cả đến sự dữ thầm kín. “Đức khôn ngoan không đến với một linh hồn mưu toan điều xấu xa, đức khôn ngoan cũng không ở nơi thân xác mắc tội lỗi. Vì kỷ luật của Thánh Linh lìa xa bọn gian xảo và rời bỏ bọn xúi bẩy điều vô ích ... Đức khôn ngoan chẳng dung thứ kẻ lộng ngôn vì Thiên Chúa chứng giám đến đáy lòng đáy dạ, nhìn thấu mọi tâm can và nghe rõ mọi điều miệng lưỡi nói ra” (Kn 1:4-6).
Bởi thế, Thần Khí của Thiên Chúa là Chúa Thánh Linh, Đấng muốn thông ban sự thánh thiện của Ngài và thực hành chức năng giáo dục: “Thánh Linh giáo huấn” (Kn 1:5). Thánh Linh chống lại sự bất công. Điều này không phải là một hạn chế đối với lòng nhân ái của Thánh Linh, nhưng đúng ra là một đòi hỏi của tình thương. Trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ, Thánh Linh chống lại mọi bất công, nhưng không khi nào để mình bị lừa, vì không thứ gì có thể trốn thoát Thánh Linh, “cả những lời nói thầm kín cũng không thoát được” (Kn 1:11). Thánh Linh “tràn ngập vũ trụ (phủ đầy càn khôn)”; Thánh Linh hiện diện khắp nơi. Sách Khôn Ngoan nói: “(Và) là sức gom hết mọi vật, Thánh Linh biết điều người ta nói” (Kn 1:7). Vì hiện diện khắp nơi, Thánh Linh hiểu biết hết mọi sự, cả những điều thầm kín.
Vốn là “Thần Khí nhân từ,” Thánh Linh không phải chỉ coi sóc con người, mà còn đổ đầy tiếng nói và sự thánh thiện của Ngài vào lòng con người. Sách Khôn Ngoan nói: “Thiên Chúa không tạo ra sự chết, cũng chẳng vui khi sinh linh bị hư diệt. Vì ngài đã tạo dựng muôn loài để chúng sinh tồn ...” (Kn 1:13-14). Sự xác định tính chất tích cực trong việc tạo dựng phản ánh quan niệm Phúc Âm về Thiên Chúa là “Đấng hằng hữu” và là Đấng tạo dựng toàn thể vũ trụ (tc. St 1:1 ff.).
Quan niệm Phúc Âm trên đây đưa lại một căn bản tôn giáo cho quan niệm triết học và đạo đức học liên quan với vạn vật; quan trọng hơn hết là nền tảng đó khởi xướng cuộc tranh luận về cùng đích của nhân loại, mà không một môn triết học nào đã có thể đưa ra mà không cần đến mạc khải thần linh. Thánh Phaolô nói, nếu sự chết xảy ra trong thế giới qua tội lỗi của nhân loại, thì Chúa Kitô đã đến như Adam mới để cứu độ con người khỏi tội lỗi và giải phóng nhân loại khỏi sự chết (tc. Rom 5:12-21). Thánh Tông Đồ nói thêm Chúa Kitô đem lại sự sống mới trong Chúa Thánh Linh (tc. Rom 8:1 ff.), hơn nữa, đặt tên và mạc khải sứ mệnh về Ngôi Vị Thần Linh ẩn trong huyền nhiệm nơi những trang Sách Khôn Ngoan.
Nhờ có năng khiếu văn học, vua Solomon được coi là tác giả Sách Khôn Ngoan. Vào một thời điểm không ghi rõ, ngài đã nói với các vua khác: “Hỡi các vua, xin hãy lắng nghe ...” (Kn 6:1). Vua Salomon mời các vua đó nhận lấy sự khôn ngoan. Chính điều đó là bí mật và chuẩn mực cho vương quyền, và giải thích “sự khôn ngoan là gì ...” (Kn 6:22). Vua Salomon ca tụng đức khôn ngoan bằng một danh sách dài những đặc điểm của Thánh Linh và hầu như đã nhân cách hóa đức khôn ngoan: “Nơi nàng là thần khí, khôn ngoan, thánh thiện, duy nhất, đa dạng ...” (Kn 7:22-23). Đức khôn ngoan có hai mươi mốt thuộc tính được mô tả cách sinh động (ba lần bảy), gồm có những lời được lấy phần thì từ triết học Hy Lạp và phần từ Thánh Kinh. Sau đây là những điểm quan trọng nhất:
Thánh Linh (thần khí) rất “thông minh,” có nghĩa: không phải là sự thúc giục mù quáng, nhưng là một sức mạnh được hướng dẫn bởi ý thức chân lý. Thánh Linh là Thần Khí “thánh,” bởi vì Thánh Linh không những chỉ soi sáng con người, mà còn thánh hóa con người. Thần Khí thì “duy nhất và đa dạng,” như thế có thể thấm nhập vào mọi thứ. Thần Khí thì “tinh tế” và tỏa khắp mọi người. Như thế hành động của thần khí cốt yếu là nội tâm, vì là sự hiện diện của Thánh Linh. Thánh Linh “có quyền tuyệt đối và nhìn thấy mọi sự,” nhưng không tạo ra sức mạnh tàn bạo hoặc hủy diệt, vì Thánh Linh “nhân từ và là bằng hữu với con người,” muốn cho nhân thế mọi sự tốt lành và “làm cho họ thành bằng hữu của Thiên Chúa.” Tình yêu nâng đỡ và hướng dẫn sự tác động uy lực của Thánh Linh.
Bởi thế, đức khôn ngoan có những đặc tính và thể hiện những vai trò thường được quy chiếu cho Thánh Linh: “Thần Khí sự khôn ngoan và thông minh ... v.v.” (Is 11:2 f.), vì sự khôn ngoan được đồng hóa với Thánh Linh trong những chiều sâu huyền nhiệm của thực hữu thần linh.
Mạc khải thiên ý là một trong các chức năng của Thánh Linh-Thần Khôn Ngoan: “Ai biết được thánh ý của Ngài, nếu Ngài không ban Thần Khôn Ngoan và gởi Thánh Linh Ngài từ trời cao đến?” (Kn 9:17). Nếu không được giúp đỡ, người ta không thể biết thiên ý vì “có Người nào biết được ý định của Thiên Chúa đâu?” (Kn 9:13). Nhờ Thánh Linh của Ngài, Thiên Chúa cho biết thần ý, chương trình của Ngài cho đời sống nhân loại sâu xa và vững chắc gấp bội so với nền tư pháp thuần lý lập quy qua ngôn ngữ loài người. Nhờ Chúa Thánh Linh hoạt động bên trong, Thiên Chúa để cho “đường lối của người trần thế được nắn thẳng, và con người được dạy cho biết điều đẹp lòng Ngài, và nhờ đức khôn ngoan họ được cứu độ” (Kn 9:18). Tới đây tác giả Sách Khôn Ngoan dùng mười chương mô tả việc làm của Chúa Thánh Linh-Đấng Khôn Ngoan, Thiên Chúa luôn luôn quan phòng dân Ngài trong lịch sử: từ nguyên tổ Adam đến ông Moses, giao ước với dân Israel, và việc giải phóng. Và tác giả kết luận: “Lạy Chúa, bằng mọi cách, Ngài đã làm cho dân Ngài vĩ đại và được vinh hiển; chẳng hề thất bại, Ngài đã ở bên họ mọi lúc và mọi hoàn cảnh” (Kn 19:22).
Trong một đoạn văn chương lịch sử về sự minh trí dẫn thượng, tác giả Sách Khôn Ngoan đã trình với Chúa và hồi niệm thần khí toàn năng của Thiên Chúa hiện diện khắp hoàn vũ, yêu thương và bảo vệ đời sống con người. Đoạn trích Sách Khôn Ngoan trên đây cũng nói về những kẻ thù dân Thiên Chúa và nói cách tổng quát về những kẻ vô thần, về những người tội lỗi. Ở trong những người đó cũng có thần linh yêu thương và sự sống: “Ngài bảo vệ mọi sự vì chúng là của Ngài. Lạy Chúa, Ngài là Chúa Tể chúng sinh, vì thần khí bất hoại của Ngài ở trong mọi sự” (Kn 11:26; 12:1).
“Ngài dung thứ ...”. Tất nhiên những kẻ thù của dân Israel chắc chắn đã bị trừng phạt kinh khủng hơn nhiều so với những sự việc đã xảy ra. “Chúng hẳn đã bị Thần Linh uy quyền của Ngài quét sạch, nhưng Ngài đã an bài mọi sự có chừng mực, có số, có lượng” (Kn 11:20). Sách Khôn Ngoan ca tụng “đức chừng mực” của Thiên Chúa và đưa ra lý do: Thánh Linh Thiên Chúa không chỉ hành động như cơn gió mạnh, có thể tiêu diệt kẻ tội lỗi, nhưng cũng hành động là Thánh Linh Khôn Ngoan ước mong sự sống và từ đó hiển lộ tình yêu của Ngài. “Nhưng Ngài là Đấng toàn năng và thương xót hết mọi người, Ngài tha thứ tội lỗi người phàm chờ họ thống hối ăn năn. Ngài yêu thương mọi sự và không nhờm tởm bất cứ thứ gì Ngài đã tạo dựng; vì điều Ngài ghét thì Ngài đã chẳng tạo dựng. Và có thứ gì tồn tại được, nếu Ngài không muốn; hoặc được bảo tồn nếu Ngài không gọi đến tên?” (Kn 11:23-25.
Chúng ta ở thượng đỉnh của nền triết học tôn giáo, không phải chỉ của Israel, mà của toàn thể mọi dân tộc cổ xưa. Như thế truyền thống Kinh Thánh, đã mô tả trong Sáng Thế Ký, giải đáp những vấn nạn lớn mà văn học Hy Lạp không có đáp số. Trình bày tới đây, chúng ta thấy lòng thương xót của Thiên Chúa hiệp nhất với chân lý về việc Ngài tạo dựng muôn loài. Tính cách tổng quát của việc tạo dựng mang theo tính cách phổ quát của lòng thương xót. Và tất cả mọi sự đều nằm trong uy lực tình yêu hằng hữu mà Thiên Chúa xót thương mọi thụ tạo của Ngài: bây giờ, trong tình thương đó, chúng ta nhận biết Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh.
Tóm lại Sách Khôn Ngoan cho thấy Thánh Linh Tình Yêu, Đấng Thượng Trí, mặc lấy những đặc tính của một Ngôi Vị, với những đặc điểm sau đây: Thánh Linh thấu rõ mọi sự và làm cho người ta nhận ra các chương trình của Thiên Chúa; Ngài không thể chấp nhận sự xấu xa; nhờ đức khôn ngoan, Ngài muốn dẫn đưa mọi người tới ơn cứu độ; Thánh Linh yêu thương mong muốn sự sống; nên Ngài đổ đầy vũ trụ sự hiện diện ân sủng của mình.
Buổi gặp chung ngày 14 tháng Ba, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Kitô Là Phép Lạ Vĩ Đại Nhất của Chúa Thánh Linh
Trong những bài giáo lý trước, chúng ta đã trình bày những dẫn chiếu và hàm ý về sự hiện hữu của Thánh Linh Thiên Chúa xuất hiện suốt dòng lịch sử theo truyền thống Cựu Ước. Những dẫn chiếu và hàm ý đó mở đầu mạc khải về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa trong Tân Ước.
Chúng ta biết Thiên Chúa linh ứng và hướng dẫn các tác giả Sách Thánh của người Israel (Cựu Ước), chuẩn bị cho mạc khải cuối cùng mà Chúa Kitô hoàn thành và ban cho các Tông Đồ, ngõ hầu các ngài có thể rao giảng và truyền bá Phúc Âm khắp thế giới.
Cựu Ước chứa đựng mạc khải sơ khởi và tiệm tiến không phải chỉ về Chúa Thánh Linh, mà cũng về Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, về công cuộc cứu độ và vương quốc của Ngài. Mạc khải này phân biệt rõ rệt Thiên Chúa (Ngôi) Cha với Đấng Khôn Ngoan hằng hữu từ Ngài mà ra, với thần khí uy lực và nhân ái mà bằng thần khí đó Thiên Chúa hoạt động trong hoàn vũ khởi từ công cuộc tạo dựng và hướng dẫn lịch sử theo chương trình cứu độ của Ngài.
Hiển nhiên đây chưa phải là một biểu lộ rõ ràng về mầu nhiệm Thiên Chúa. Nhưng đồng thời đây là một tiến trình chuẩn bị cho mạc khải trong tương lai. Chính Thiên Chúa thực hiện điều đó suốt dòng lịch sử Cựu Ước qua “lề luật và các ngôn sứ” (tc. Mt 22:40, Jn 1:45) cũng như lịch sử dân Israel, vì “omnia on figura contingebant illis” mọi sự trong lịch sử (Cựu Ước) đó đều có bóng dáng và giá trị chuẩn bị cho tương lai (1 Cor 10:11; 1 Pet 3:21; Dt 9:24).
Trước thềm Tân Ước chúng ta thấy một vài nhân vật: Giuse, Zechariah, Elisabeth, Anna, Simeon, và hơn hết là Đức Maria, những vị này, nhờ ơn Thánh Linh soi dẫn nội tâm, biết cách tìm ra ý nghĩa đích thực việc Chúa Kitô đến trần gian.
Chúng ta có thể nói những dẫn chiếu được các Thánh Sử Luca và Matthêu nhắc đến về Chúa Thánh Linh liên quan tới những vị đại diện rất nhiệt thành của Cựu Ước (tc. Mt 1:18,20; Lk 1:15,35,41,67; 2:26-27) là nối kết, là chuyển bước từ Cựu Ước sang Tân Ước. Về sau, điều này được nhìn nhận đầy đủ trong ánh sáng mạc khải của Chúa Kitô và sau ngày Lễ Hiện Xuống. Sự kiện này vẫn còn ý nghĩa quan trọng là các tông đồ và các thánh sử dùng từ ngữ “Chúa Thánh Linh” để nói về sự can thiệp của Thiên Chúa trong việc Ngôi Lời Nhập Thể và Giáo Hội chào đời vào ngày Lễ Hiện Xuống. Theo lời Thánh Luca, điều đáng kể là trong cả hai biến cố Đức Trinh Mẫu Maria là nhân vật chính – Đức Maria bẩm thai Chúa Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Linh (tc. Lk 1:35; Mt 1:18). Cùng với các tông đồ và những thành viên đầu tiên của Giáo Hội, Đức Maria vẫn kiên trì cầu nguyện đón chờ Chúa Thánh Linh ngự đến (tc. Cv 1:14).
Chính Chúa Giêsu đã minh họa vai trò của Chúa Thánh Linh khi Ngài giải thích cho các môn đệ biết các ông sẽ chỉ có thể thấu triệt mầu nhiệm về ngôi vị và sứ mệnh của Ngài nhờ giúp đỡ của Chúa Thánh Linh: “Khi Thánh Linh chân lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Jn 16:13-14). Vì thế, chính Chúa Thánh Linh giúp chúng ta ý thức sự cao trọng của Chúa Kitô và như thế tôn vinh Chúa Cứu Thế. Nhưng cũng chính Chúa Thánh Linh đã mạc khải vai trò của Ngài trong cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây là một điểm quan trọng cần chú tâm, mà cha muốn lưu ý mọi người bằng một loạt bài giáo lý.
Nếu phần trước chúng ta đã trình bày những kỳ công của Chúa Thánh Linh được Chúa Giêsu loan báo và xảy ra trong Lễ Hiện Xuống, suốt thời kỳ sơ khai của Giáo Hội và trong dòng lịch sử, thì đã tới lúc cần nhấn mạnh sự kiện lạ lùng thứ nhất và vĩ đại nhất mà Chúa Thánh Linh thể hiện chính là Chúa Kitô. Chúng ta cần chú ý vào chính điều lạ lùng này.
Chúng ta đã suy gẫm về ngôi vị, cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô trong loạt bài về Kitô học. Nhưng lúc này chúng ta có thể trở lại vắn tắt đề tài đó dưới chủ đề Thánh Linh học, nghĩa là trong linh quang những việc Chúa Thánh Linh thể hiện trong Con Thiên Chúa làm người.
Trong tiến trình tìm hiểu giáo lý, chúng ta có thể nói về Con Thiên Chúa, sau khi đã học hỏi về Chúa Cha, và trước khi nói về Chúa Thánh Linh, Đấng “từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra.” Vì lý do này, Kitô học đi trước Thánh Linh học. Và như thế là chính đáng, vì cho dù nhìn từ quan điểm niên đại, thì mạc khải về Chúa Kitô trong thế giới chúng ta xảy ra trước việc tuôn đổ ơn Chúa Thánh Linh Đấng hình thành Giáo Hội vào ngày lễ Hiện Xuống. Hơn nữa, việc tuôn đổ ơn Thánh Linh là kết quả đạt được do việc Chúa Kitô hy sinh cứu độ và hiển lộ quyền năng của Chúa Con, lúc này ngự bên hữu Chúa Cha.
Hơn nữa, theo quan điểm các Giáo Hội Đông Phương, sự kết hiệp Thánh Linh học với Kitô học hầu như bất khả ly bởi sự kiện là Chúa Thánh Linh xuất hiện ngay tại chính nguồn gốc về Chúa Kitô khi Ngôi Lời Nhập Thể và nhập thế “do quyền năng Chúa Thánh Linh,” như kinh Tin Kính tuyên xưng.
Trong việc hoàn tất mầu nhiệm Nhập Thể, có sự hiện diện quyết định của Chúa Thánh Linh, mà nếu chúng ta muốn thấu triệt và trình bày mầu nhiệm này rõ ràng đầy đủ hơn, thì chúng ta nói Ngôi Lời đã mang nhục thể vẫn chưa đủ. Như trong kinh Tin Kính, chúng ta cũng phải nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Linh trong việc tạo thành nhân tính của Con Thiên Chúa trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria. Chúng ta sẽ nói về đề tài này sau. Và chúng ta sẽ cố gắng dõi theo hành động của Chúa Thánh Linh trong cuộc đời và sứ mệnh Chúa Kitô: trong thời thơ ấu, khi Chúa bắt đầu cuộc sống công khai qua phép rửa, trong những ngày Chúa ở hoang địa, khi cầu nguyện, khi rao giảng, trong khổ hình cứu chuộc và sau cùng là khải hoàn phục sinh.
Từ việc nghiên cứu các văn bản Phúc Âm, chúng ta thấy một chân lý căn bản là nếu tách rời khỏi Chúa Thánh Linh, thì chúng ta không thể hiểu được rõ ràng Chúa Kitô là gì, và Chúa Kitô là gì đối với chúng ta. Điều đó có nghĩa Chúa Thánh Linh không những chỉ là ánh sáng cần thiết cho việc hiểu thấu mầu nhiệm Chúa Kitô, mà ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh trong việc Ngôi Lời Nhập Thể và toàn thể cuộc đời Chúa Kitô phải được dùng để giải thích Chúa Giêsu của Phúc Âm. Chúa Thánh Linh để lại dấu ấn về đặc tính Thiên Chúa của Ngài trên khuôn mặt Chúa Kitô.
Vì thế, ý thức sâu xa hơn về Chúa Kitô cũng đòi hỏi một tri thức sâu sắc hơn về Chúa Thánh Linh. Biết Chúa Kitô là ai thì cũng biết Chúa Thánh Linh là ai là những nan đề bất khả ly, bên này bao hàm bên kia.
Chúng ta cũng có thể nói thêm: ngay cả sự liên hệ của một Kitô hữu với Chúa Kitô cũng được coi như một (bất khả ly) giữa sự liên kết của người đó với Chúa Thánh Linh. Trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus, Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu điều này qua lời diễn tả niềm hy vọng: các tín hữu có thể “được tăng cường sức mạnh” nhờ Thần Linh của Chúa Cha trong tâm hồn ngõ hầu có thể “hiểu biết tình yêu của Chúa Kitô vượt quá mọi sự hiểu biết” (tc. Eph 3:16-19). Điều đó có nghĩa là để đến được với Chúa Kitô bằng tri thức và tình yêu như xảy ra trong sự khôn ngoan Kitô Giáo đích thực, chúng ta cần ơn linh ứng và hướng dẫn nội tâm của Chúa Thánh Linh, Chúa sự thật và sự sống.
Buổi gặp chung ngày 28 tháng 3, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
TRINH THAI
Chúng ta đã nói trong bài giáo lý trước toàn thể “mầu nhiệm Chúa Kitô” có thể giải thích được nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh. Bởi thế, việc học hỏi thấu đáo và chính đáng “mầu nhiệm Chúa Kitô” và những giai đoạn khác nhau của cuộc đời Ngài dẫn chúng ta tới sinh lộ toàn hảo để đạt tới kiến thức đầy đủ về Chúa Thánh Linh. Chúng ta học được chân lý về Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh, cách đặc biệt trong cuộc đời Đấng Thiên Sai, Đấng “được thánh hiến bằng Thánh Linh” (tc. Cv 10:38). Giai đoạn đầu tiên là chính việc Nhập Thể, nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thế. Ngài mặc (nhận lấy) nhân tính trong việc bẩm thai và sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng Chúa Thánh Linh: “Conceptus de Spiritu Sancto, natus ex Maria Virgine,” như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính.
Tín điều huyền nhiệm đó tiềm ẩn trong biến cố mà chúng ta biết được trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Luca. Chúng ta căn cứ vào hai tường thuật đó vì rất giống nhau và cũng là những nguồn bổ sung cho nhau. Chúng ta nên bắt đầu bằng Phúc Âm theo Thánh Luca để nghiên cứu các sự kiện theo thứ tự niên đại. Nhưng vì mục đích giáo huấn của chúng ta thì điều thích hợp là mở đầu bằng bản của Thánh Matthêu. Thánh Matthêu giải thích rõ ràng về sự bẩm thai và giáng sinh của Chúa Giêsu (có lẽ ngài muốn đáp lại những lời đồn đại đầu tiên loan truyền trong giới Do Thái khắt khe). Thánh Matthêu viết: “Đây là sự việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Khi Trinh Nữ Maria, Mẹ Ngài, đã đính hôn với ông Giuse nhưng hai người chưa chung sống, Trinh Nữ đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Linh” (Mt 1:18). Thánh Sử nói thêm rằng thánh Giuse biết sự kiện này qua lời thiên sứ: “Thiên thần của Chúa hiện ra nói với ông Giuse trong mộng, ‘Này Giuse, con vua David, đừng sợ đón Maria vợ ông về nhà (về chung sống), bởi vì chính do quyền năng Chúa Thánh Linh mà Người mang thai” (Mt 1:20).
Bởi thế, ý định của Thánh Matthêu là minh xác nguồn gốc thần linh của biến cố Ngôi Lời nhập thể mà ngài cho là Chúa Thánh Linh can thiệp. Và lời giải thích trong Mt 1:20 trở thành bài Kinh Thánh của các cộng đồng Kitô Giáo trong những thế kỷ đầu. Và các Sách Phúc Âm, kinh Tin Kính, các định nghĩa có tính cách Công Đồng và truyền thống Giáo Phụ đều phát xuất từ những cộng đồng tiên khởi này.
Đoạn Phúc Âm theo Thánh Luca cho chúng ta thấy rõ thời điểm chính xác và thể thức trong đó thiên chức làm mẹ toàn vẹn trinh khiết của Đức Maria bắt nguồn từ Chúa Thánh Linh (tc. Lc 1:26-38). Thánh Luca nhắc lại lời thiên sứ báo tin: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên (bao phủ) Trinh Nữ. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc. 1:35).
Bây giờ chúng ta ghi nhận tính cách đơn sơ, chính xác và ngắn gọn, súc tích, theo đó Thánh Matthêu và Luca tường thuật những giây phút xác thực Việc Nhập Thể của Ngôi Lời. Đoạn mở đầu Phúc Âm thứ bốn về sau cống hiến một khoa thần học đầy đủ hơn. Khoa thần học này giúp chúng ta thấy niềm tin vào Chúa Kitô của chúng ta vượt xa khỏi bầu không khí huyền hoặc, huyền thoại, mà một số nhà giải thích tôn giáo, ngay cả những người thời nay, hạ thấp quan niệm về một Vị Thiên Chúa làm người. Trong chính căn cốt các văn bản Phúc Âm đó có giá trị sự thật lịch sử trực tiếp hoặc gián tiếp dựa vào các nhân chứng và hơn hết là Đức Maria, Người là nguồn gốc chính của lời tường thuật này. Nhưng đồng thời, các nhân chứng đó giúp cho các thánh sử và các cộng đồng Kitô hữu đầu tiên kiên tín vào sự hiện diện của một huyền nhiệm, hoặc đúng hơn phải nói là một chân lý được mạc khải, mà trong đó xảy ra biến cố Ngôi Lời nhập thể “do quyền năng Chúa Thánh Linh.”
Huyền nhiệm thần linh can thiệp trong Việc Nhập Thể là một sự kiện thực, chính xác từng nét, mặc dầu không cách nào chúng ta có thể kiểm chứng, ngoại trừ theo “dấu chỉ” (tc. Lc 2:12) cho loài người, cho “nhục thể,” như thánh Gioan nói: Ngôi Lời Nhập Thể là một dấu chỉ được ban cho những người khiêm tốn rộng lòng đón nhận ơn Thiên Chúa mạc khải (tc. Jn 1:14).
Việc Ngôi Lời nhập thể là một biến cố lịch sử theo truyền thống Kitô có văn bản từ thời các thánh tông đồ và thời đại sau các ngài, chứ không phải là huyền thoại hoặc câu chuyện kể lại có tính cách biểu tượng, dã sử.
Việc Ngôi Lời nhập thể là một biến cố đích thực, mà “vào thời viên mãn” (tc. Gal 4:4) đem lại điều mà ngay cả trong một số huyền thoại thời cổ đại có thể đã hàm ngụ như là một sự ước mơ, hoặc như là một tiếng vang hoài cổ hoặc có thể cũng là lời tiên đoán về sự truyền thông tuyệt hảo giữa con người và Thiên Chúa. Chúng ta quả quyết việc Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Linh can thiệp như các tác giả Phúc Âm trình bày là sự kiện lịch sử vào thời các ngài, đồng thời là sự huyền nhiệm, là chân lý mạc khải và đối tượng của niềm tin.
Xin các bạn ghi nhận những yếu tố mới và tính chất độc đáo của biến cố Ngôi Lời nhập thể liên quan với các tác phẩm Cựu Ước, những tác phẩm này chỉ nói đến việc Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Đấng Thiên Sai trong tương lai: “Một chồi sẽ phát xuất từ nhánh Jesse, và từ rễ của ông, chồi lộc sẽ mọc lên. Thánh Linh Chúa sẽ ngự xuống trên Ngài” (Is 11:1-2). “Thánh Linh Chúa ngự trên tôi vì Ngài đã xức dầu cho tôi” (Is 61:1).
Nhưng Phúc Âm Thánh Luca nói về Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Đức Maria, khi Người trở nên mẹ Đấng Thiên Sai. Giá trị của yếu tố mới này cũng quan trọng vì lần này việc Chúa Thánh Linh ngự xuống liên quan tới một phụ nữ, mà phần đóng góp đặc biệt của Người vào công cuộc cứu độ của Đấng Thiên Sai được minh họa. Như thế vai trò của Đức Maria trong việc Ngôi Lời nhập thể và sự liên kết giữa Đức Maria với Chúa Thánh Linh trong việc Chúa Kitô đến nổi bật vào cùng thời gian đó. Lời ngôn sứ Isaiah (11:1-2; 61:1) cũng soi sáng sự huyền nhiệm về Đức Maria. Điều huyền nhiệm về người phụ nữ liên quan đến Đức Maria cần phải được nghiên cứu và minh họa thêm suốt dòng lịch sử, nhưng cũng trong những hậu quả lâu dài của sự kiện đó đối với địa vị và sứ mệnh của toàn thể phụ nữ.
Chúng ta tìm thấy một yếu tố mới nữa trong trình thuật Phúc Âm khi đối chiếu yếu tố việc sinh hạ Đấng Thiên Sai với những tường thuật về những cuộc sinh sản lạ lùng mà Cựu Ước ghi nhận (tc. 1 Sam 1:4-20; Đnl 13:2-24). Những việc sinh sản này xảy ra theo sinh hoạt truyền sinh thông thường của nhân loại, mặc dầu có chút khác thường, và trong lời tường thuật những lần sinh sản đó không nói tới Chúa Thánh Linh. Trái lại, trong lúc thông báo thiên ý cho Đức Maria ở Nazareth, lần đầu tiên được nói cho biết rằng việc bẩm thai và sinh hạ Con Thiên Chúa làm con Đức Maria sẽ xảy ra do quyền năng Chúa Thánh Linh. Đây là điểm chủ chốt của việc trinh thai và chào đời trinh khiết; trình thuật của Thánh Luca cho thấy lời Đức Maria hỏi thiên sứ: “Việc này xảy ra thế nào được? Vì tôi không biết nam nhân (không sinh hoạt việc vợ chồng)” (Lc 1:34). Bằng những lời này Đức Maria minh xác sự trinh khiết của Người, và không phải chỉ là một sự kiện, mà cũng còn hàm ý minh xác quyết tâm (giữ trinh khiết) của Người.
Sự quyết tâm này phải được hiểu cách chính xác hơn là Đức Maria tự nguyện tận hiến sự trinh khiết của Người cho Thiên Chúa, bởi vì chúng ta coi sự trinh khiết của Người là kết quả của việc Chúa Thánh Linh hành động trong Người. Sự kiện đó có thể thấy trong chính lời chào thiên sứ nói trực tiếp với Người: “Kính mừng, Đấng được sủng ái, Chúa ở với Trinh Nữ” (Lc 1:28). Thánh Sử cũng nói về cụ già Simeon “Chúa Thánh Linh ở với ông, một người công chính và nhiệt thành hằng trông chờ ơn an ủi cho dân Israel” (Lc 2:25). Nhưng những lời thiên sứ chào Đức Maria nói lên nhiều hơn nữa: những lời đó minh xác Người đã được “biến đổi nhờ ân sủng,” “được củng cố trong ân sủng.” Tình trạng tràn đầy ân sủng duy nhất này không thể là thứ gì khác mà chính là hoa trái của hành động khởi đầu của Chúa Thánh Linh trong việc chuẩn bị cho mầu nhiệm Nhập Thể. Chúa Thánh Linh bảo đảm chắc chắn Đức Maria được chuẩn bị hoàn hảo để trở nên mẹ của Con Thiên Chúa và, xét theo chức thiên mẫu này, Người là và vẫn luôn luôn là một trinh nữ. Sự kiện trinh mẫu là một yếu tố khác nữa trong huyền nhiệm Nhập Thể chiếu sáng xuyên suốt từ biến cố đã kể trong các Sách Phúc Âm.
Nếu chúng ta cân nhắc truyền thống Cựu Ước trong đó Đức Maria sống và được giáo huấn, chúng ta có thể nhận thức rõ hơn về quyết định quí trọng đức trinh khiết của Người là do hành động của Chúa Thánh Linh. Theo truyền thống Cựu Ước liên quan tới việc thờ phượng và lề luật Thiên Chúa, những khát vọng của “trinh nữ Israel” cũng đã đi theo thiên hướng làm mẹ vì đức trinh khiết không phải là lý tưởng được ấp ủ theo đuổi. Người Israel đã bị cuốn hút hoàn toàn trong việc thiết tha trông đợi Đấng Thiên Sai. Các phụ nữ được hướng dẫn theo tâm lý về thiên chức làm mẹ cũng liên hệ với việc Đấng Thiên Sai đến. Khuynh hướng cá nhân mang mầu sắc dân tộc này được coi như lời tiên tri thấm vào lịch sử Israel, một dân tộc mà trong đó việc trông chờ Đấng Thiên Sai và chức năng sinh sản của phụ nữ nối kết chặt chẽ. Vì thế hôn nhân mang mầu sắc tôn giáo đối với “nhi nữ Israel.”
Nhưng đường lối của Thiên Chúa khác hẳn. Chúa Thánh Linh dẫn dắt Đức Maria theo đúng hướng đức trinh khiết, trong đó Người đứng tại khởi nguồn lý tưởng mới của việc tận hiến – linh hồn và thân xác, tình cảm và ý chí, trí khôn và trái tim – trong tâm hồn Dân Thiên Chúa thuộc Tân Ước, theo lời Chúa Giêsu mời gọi: “Vì nước Thiên Chúa” (Mt 19:12). Cha đã nói về lý tưởng mới có tính cách Phúc Âm này trong Tông thư Mulieris Dignitatem (số 20).
Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, là một trinh nữ vẫn ở vị thế bất khả thay thế trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Mặc dầu thời nay, hầu như người ta đang chuyển hướng ngược chiều, lòng yêu mến sự trinh khiết (độc thân vì nước Thiên Chúa) mà Chúa Thánh Linh in vào cách rõ ràng trong huyền nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể không thể bị che mờ. Ngôi Lời Nhập Thể “bẩm thai bởi Chúa Thánh Linh và sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria” mà sự chào đời và nhân tính của Ngài đòi phải có bà mẹ trinh khiết làm cho Đức Maria trở nên biểu tượng sống động của địa vị người phụ nữ, sự tổng hợp hai tính chất cao cả bất khả tương nhượng của nhân loại – chức làm mẹ và đức trinh khiết – và là nét đặc thù của chân lý về Việc Nhập Thể. Đức Maria là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, nhưng một mình Thiên Chúa là Cha, do quyền năng Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 4 tháng Tư, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh Hiện Diện Cách Đặc Biệt trong Đức Trinh Nữ Maria
Chúng ta đã nhận thấy việc nghiên cứu cách chính đáng và cẩn thận về “biến cố Nhập Thể” mở ra cho thấy các chân lý về Chúa Thánh Linh cũng như những chân lý về Chúa Kitô Thiên Chúa-Người (the God-Man). Những chân lý về Chúa Kitô và về Chúa Thánh Linh tạo thành huyền nhiệm duy nhất của việc Ngôi Lời Nhập Thể. Mầu Nhiệm Nhập Thể là sự kiện có tính cách lịch sử chứa đầy những chân lý huyền nhiệm đã mạc khải trong Tân Ước, đặc biệt là trong những tường thuật của Thánh Matthêu và Luca về việc bẩm thai và giáng sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn nhận điều này trong lời tuyên tín vào Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng hữu, khi chúng ta tuyên xưng: “do quyền năng Chúa Thánh Linh” Ngài đã làm người, bẩm thai và sinh hạ bởi Đức Maria.
Lời thánh sử Luca tường thuật sự kiện thiên sứ truyền tin cho Đức Maria minh họa việc Ngôi Lời nhập thể là một biến cố xảy ra trong bối cảnh của mối liên hệ mật thiết sâu xa, tuyệt vời giữa Thiên Chúa và Đức Maria. Lời tường thuật cũng làm sáng tỏ mối tương quan cá biệt mà Thiên Chúa muốn có với từng người.
Thiên Chúa hiện diện trong mọi thụ tạo là căn nguyên và là Đấng duy trì sự hiện hữu của từng thụ tạo theo bản chất tự nhiên của chúng. Chính Thiên Chúa hiện diện theo một cách mới trong mỗi người rộng mở tâm hồn đón Ngài và trở thành môn đệ của Ngài, nghênh đón ân sủng mà nhờ đó người ấy có thể nhận biết và yêu mến Ngài cách siêu nhiên, Ngài là vị khách của linh hồn đã được biến đổi trở nên đền thờ (tc. Summa Theol. I, q. 8, a. 3, ad 4. q.38, a.1; q. 43, a.3). Nhưng trong nhân tính của Chúa Kitô, Thiên Chúa tạo dựng một đền thờ cao cả hơn và hoàn hảo hơn – và là đền thờ duy nhất, kết hợp đền thờ đó với chính Chúa trong ngôi vị của Ngôi Lời - Con Hằng Hữu của Chúa Cha (tc. Summa Theol. I, q. 8, a.3, ad 4; III, q. 2, a. 2). Chúng ta có thể nói Thiên Chúa tạo ra sự hiệp nhất, chỗ ở đặc biệt và ưu việt trong Đức Maria suốt thời gian Nhập Thể của Ngôi Lời, trong việc bẩm thai và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô, Con một của Thiên Chúa Cha. Sự kiện trên đây là một huyền nhiệm nổi bật khi Việc Nhập Thể được học hỏi cặn kẽ.
Chúng ta lại cùng nhau suy niệm theo đoạn Phúc Âm Thánh Luca. Đoạn Phúc Âm này mô tả và ghi nhận mối liên hệ rất mật thiết của Thiên Chúa với Đức Trinh Nữ mà thiên sứ thông báo lời mời gọi Người làm mẹ Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, bởi quyền năng Chúa Thánh Linh. Một mặt cả Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp thông với Đức Maria, mà một ngày kia Chúa Kitô nói rõ hơn về sự hiệp nhất và nét đặc biệt này. Thiên sứ Gabriel loan báo cho Đức Maria biết rằng do thánh ý và ân sủng Thiên Chúa mà Người cưu mang và sinh hạ Đấng sẽ được nhìn nhận là Con Thiên Chúa; và việc đó sẽ xảy ra bởi quyền năng Chúa Thánh Linh, nghĩa là do hiệu năng việc Đấng Tối Cao bao phủ Người, sẽ làm cho Người là mẹ phần nhân tính của người con này. Danh xưng “Chúa Thánh Linh” vang lên trong hồn Đức Maria là tên của một Ngôi Thiên Chúa; đó là một yếu tố mới so sánh với truyền thống Israel và các sách Cựu Ước. Danh xưng “Chúa Thánh Linh” là một mạc khải đã tiên liệu cho Đức Maria, Đấng được ban quyền dự phần vào khái niệm lờ mờ về huyền nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Theo những lời Thánh Luca, Đức Maria suy gẫm về Chúa Thánh Linh cách đặc biệt và nhận thấy Ngài là Đấng, mà theo một ý nghĩa nào đó “lấp đầy khoảng cách” giữa Thiên Chúa và con người. Chính qua Chúa Thánh Linh mà Thiên Chúa đến gần nhân loại trong bản tính loài người của mình để trong chính bản tính Thiên Chúa của Ngài “hiến dâng mình làm tặng phẩm” cho nhân loại và tạo ra một hình thức mới về sự kết hiệp và hiện diện trong mỗi người (tc. Summa Theol, q. 43, a. 3). Đức Maria được đặc ân trong khám phá này vì Người là nơi Thiên Chúa ngự và kết hiệp với Thiên Chúa trong thiên chức làm mẹ. Về ơn gọi tột cùng cao cả này, Đức Maria được ban một đặc ân mà thiên sứ nhìn nhận trong lời ngài chào mừng Người (tc. Lc 1:28). Và tất cả mọi điều này là công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng là nguồn ân sủng nơi mỗi con người.
Nói theo thứ tự trước sau thì Chúa Thánh Linh ngự xuống và hành động trong Đức Maria ngay cả trước Việc Nhập Thể, nghĩa là từ giây phút Bẩm Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Người. Nhưng việc đó xảy ra hướng về Chúa Kitô, Con của Người, trong bầu không khí khác thường của huyền nhiệm Nhập Thể. Bởi vì Việc Bẩm Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Người đã cấu thành sẵn hoàn cảnh để Đức Maria tham dự vào các phúc lợi của Việc Nhập Thể và cứu độ, như là cao điểm và sự viên mãn của việc “tự hiến” mà Thiên Chúa thể hiện cho nhân loại. Và điều đó được hoàn thành do quyền năng Chúa Thánh Linh. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ (rợp bóng trên) Trinh Nữ. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35).
Bên cạnh những điều chân thực khác, trong đoạn Phúc Âm thánh Luca cũng có sự kiện là Thiên Chúa chờ đợi sự thuận ý của Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Trong các sách Cựu Ước nói về các vụ sinh sản trong hoàn cảnh ngoại lệ, có những trường hợp người cha người mẹ, vì tuổi già, không còn khả năng sinh sản con cái như mong ước. Như trường hợp ông Abraham và bà Sarah sinh ra ông Isaac khi cả hai ông bà đều đã cao niên, chúng ta tiến đến ngưỡng cửa Tân Ước: ông Zachariah và bà Elisabeth sinh ra Thánh Gioan Tẩy Giả khi ông bà đã trọng tuổi.
Trong việc thông báo thiên ý cho Đức Maria có điều gì đó mang ý nghĩa khác lạ xảy ra. Đức Maria đã tận hiến sự trinh khiết của Người cho Thiên Chúa. Để trở nên mẹ của Con Thiên Chúa, Đức Maria không phải làm gì hơn điều Người được yêu cầu là nói lên lời ưng thuận đối với công trình Chúa Thánh Linh sẽ hoàn thành trong Người do quyền năng Thiên Chúa của Ngài.
Như thế Việc Nhập Thể, công trình của Chúa Thánh Linh, gồm hành động tự nguyện về phần của Đức Maria như một con người. Với tư cách là một con người, Đức Maria đã đáp ứng cách ý thức và tự do đối với hành động của Thiên Chúa và hoan nghênh quyền năng Chúa Thánh Linh.
Khi đòi hỏi lời đáp ứng có ý thức và tự do, Thiên Chúa tôn trọng Đức Maria và diễn tả sự bày tỏ cao cả nhất về “phẩm giá và tương quan nhân quả” mà chính Ngài đã ban cho tất cả mọi hữu thể và đặc biệt là cho con người. Mặt khác, lời đáp tuyệt vời của Đức Maria: “Thưa, tôi đây là nữ tì của Chúa. Xin thể hiện cho tôi theo lời thiên sứ nói” (Lc 1:38) tự nó đã là hoa trái của quyền năng Chúa Thánh Linh ở trong Người, trong ý muốn và trái tim của Người. Sở dĩ có lời đáp ứng đó là nhờ ân sủng và trong ân sủng từ Chúa Thánh Linh. Nhưng không làm cho lời đáp ưng thuận đó không còn là lời biểu lộ chính xác sự tự do của Đức Maria với tư cách một con người và là một hành động tự nguyện có ý thức. Hành động bên trong của Chúa Thánh Linh nhắm bảo đảm rằng lời hồi đáp ưng thuận của Đức Maria đúng như mong đợi, cũng như ý nguyện của mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi.
Lời tuân phục của Đức Maria giãi bầy tâm trạng theo hình thức tích cực trọn vẹn nhất về tâm thức trưởng thành của lương tâm linh thông đạo hạnh, mà một cá nhân có thể có nếu biết hoàn toàn hy sinh tự ngã. Chỉ như thế mới là tình yêu trưởng thành. Khi tự hiến cho ý chí nhân loại, Chúa Thánh Linh là Đấng Tình Yêu (tự hữu), Ngài bảo đảm rằng tình yêu của con người được sinh ra và trưởng thành theo chủ thể; vì muốn diễn đạt theo nhân tính, hành động này đồng thời cũng tạo ra sự sung mãn tâm linh của con người. Đức Maria đã bầy tỏ lời đáp ứng yêu thương của Người cách toàn hảo, và như thế đã trở nên mẫu mực tương quan cá thể với Thiên Chúa cho mọi người.
Vì thế “biến cố Nazareth” mà Thánh Luca mô tả trong Phúc Âm về việc loan báo thiên ý (truyền tin) là một hình ảnh toàn hảo – và chúng ta có thể gọi đó là mẫu mực - của mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người. Thiên Chúa muốn mối liên hệ này được xây dựng trong từng người dựa vào ơn Chúa Thánh Linh, nhưng cũng trên sự trưởng thành cá nhân nữa. Trước ngưỡng cửa giao ước mới, Chúa Thánh Linh ban cho Đức Maria một ân sủng thiêng liêng vô cùng cao cả. Đức Maria dâng lên Chúa Thánh Linh hành động tận hiến và yêu mến vâng phục, mà hành động này là gương mẫu cho toàn thể những người được kêu gọi đến với đức tin và theo Chúa Kitô, vì “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14). Sau sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu và Lễ Hiện Xuống, ơn gọi đó, “ơn tự hiến” của Thiên Chúa, việc làm của Chúa Thánh Linh nối tiếp biến cố Nazareth sẽ được lặp lại suốt dòng lịch sử Giáo Hội. Và sự tận hiến sẽ luôn luôn là lời nhân loại đáp ứng lại ơn gọi và và ân sủng của Thiên Chúa ban cho cùng với sự trưởng thành cá thể đã rực sáng qua lời tuân phục (fiat) của Đức Trinh Nữ thành Nazareth trong biến cố truyền tin.
Buổi gặp chung ngày 18 tháng Tư, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh và “Tân Nhân Chủng Học”
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha, đã trở nên con người do quyền năng Chúa Thánh Linh. Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã viết: “việc bẩm thai và giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô thực tế là kỳ công vĩ đại nhất do Chúa Thánh Linh hoàn thành trong lịch sử tạo dựng và cứu độ: ân sủng siêu việt ‘ân sủng hiệp nhất’ là nguồn mạch mọi ân sủng khác, như thánh Thomas đã giải thích (tc. Summa Theol. III, q.7, a.13). Vì “thời gian viên mãn” hợp với sự sung mãn đặc biệt của việc Ba Ngôi Thiên Chúa truyền thông cho nhau trong Chúa Thánh Linh. “Do quyền năng Chúa Thánh Linh, mầu nhiệm ‘ngôi hiệp’ được thể hiện, nghĩa là hiệp nhất thiên tính và nhân tính, của việc kết hiệp thiên tính và nhân tính trong Ngôi Lời-Chúa Con” (số 50).
Việc ngôi hiệp này đề cập đến mầu nhiệm Nhập Thể. Từ lúc khởi đầu giao ước mới, mầu nhiệm Chúa Thánh Linh đã nối kết với mạc khải về Ngôi Lời Nhập Thể. Chúng ta đã thấy điều này trong những bài giáo lý trước và cho phép chúng ta minh họa chân lý này trong nhiều khía cạnh khác nhau, bắt đầu bằng việc bẩm thai trinh khiết của Chúa Giêsu Kitô, như chúng ta đọc trong Phúc Âm Thánh Luca về biến cố loan báo thiên ý (mầu nhiệm Truyền Tin: tc. Lc 1:26-38). Khó mà giải thích nguồn gốc văn bản này nếu không nhắc đến lời tường thuật về Đức Maria, vì chỉ một mình Người có thể biết điều gì đã xảy ra trong chính Người vào giây phút bẩm thai Chúa Giêsu. Những trường hợp tương tự đã từng được nêu lên giữa trình thuật này và những lời tường thuật khác từ thời xa xưa, đặc biệt là trong các Sách Cựu Ước không khi nào nói tới sự việc quan trọng nhất và có tính cách quyết định đó, nghĩa là việc trinh thai. Hẳn nhiên việc trinh nữ thụ thai tạo thành một yếu tố hoàn toàn mới mẻ.
Thực vậy chúng ta đọc đoạn văn song hành trong Phúc Âm Thánh Matthêu: “Tất cả sự việc này đã xảy ra là để hoàn tất điều Chúa đã nói qua các tiên tri: ‘Này, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, và người ta gọi người con đó là Emmanuel’” (Mt 1:22-23). Tuy nhiên kết quả luôn luôn vượt xa những mong cầu. Đoạn Phúc Âm Matthêu 1:22-23 trên đây bao gồm những yếu tố mới đã không đề cập đến trong lời tiên tri. Như thế lời ngôn sứ Isaiah về trinh nữ sẽ thụ thai (tc. Is. 7:14) vẫn chưa trọn vẹn và vì thế người ta giải thích lời đó bằng nhiều cách khác nhau.
Biến cố Nhập Thể hoàn tất việc trinh nữ thụ thai cách tuyệt hảo vô tiền khoáng hậu. Một việc trinh thai thực sự đã được thể hiện do quyền năng Chúa Thánh Linh. Chúa Con Đấng được sinh ra đích thực là “Thiên Chúa ở với chúng ta.” Chúng ta không còn nói cách giới hạn về một giao ước với Thiên Chúa, nhưng nói về Thiên Chúa thực sự hiện diện giữa dân Ngài do Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa hằng hữu. Sự kiện này là một yếu tố hoàn toàn mới.
Vì thế việc trinh thai là một phần toàn vẹn của mầu nhiệm Nhập Thể. Thân thể Chúa Giêsu mà Đức Maria thụ thai cách trinh khiết là sở hữu của Ngôi Lời Thiên Chúa hằng hữu. Chính Chúa Thánh Linh làm việc này khi ngự xuống trên Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Chúa Thánh Linh thực hiện việc này để con người đó (Con Người, Chúa Giêsu) mà Đức Maria thụ thai đích thực là Con Thiên Chúa, Thiên Chúa Cha sinh ra Ngài từ thuở đời đời, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Cha hằng hữu là Cha duy nhất của Ngài. Trong khi được sinh ra bởi Đức Maria như một con người, Chúa Giêsu vẫn luôn luôn là Chúa Con của cùng một Chúa Cha mà Ngài được sinh ra từ thuở đời đời. Sự trinh khiết của Đức Maria nhấn mạnh cách đặc biệt rõ ràng Chúa Con mà Người thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Linh là Con Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu.
Các ảnh thánh truyền thống thời xưa trình bày Đức Maria ẵm Chúa Hài Đồng Giêsu mà không có Thánh Giuse đứng bên, tạo thành lời tuyên bố thầm lặng nhưng khẳng định về thiên chức trinh mẫu của Người, và như thế, nói về thiên tính của Chúa Con. Vì thế, bức ảnh này có thể được gọi là bức ảnh về thiên tính của Chúa Kitô. Chúng ta tìm thấy hình ảnh đó trong một bức tranh vẽ trên tường trong Hang Toại Đạo (Catacombs) ở Roma vào cuối thế kỷ thứ hai, và sau này còn thấy nhiều bản sao nữa. Bức tranh đó đặc biệt mô tả rất sâu sắc những nét vẽ nghệ thuật và ấn dấu đức tin trong các ảnh thánh miền Byzantine và Russia (Nga), các ảnh này liên hệ nhất với những nguồn đức tin nguyên thủy: Phúc Âm và truyền thống ban đầu của Giáo Hội.
Thánh Luca tường thuật những lời thiên sứ loan báo về việc giáng sinh của Chúa Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Linh: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ” (Lc 1:35). Thánh Linh mà thánh sử nói đến là Thần Khí, là “Đấng ban sự sống.” Thần khí không phải chỉ nói về “hơi thở (của) sự sống” là dấu chỉ của sinh linh, nhưng cũng nói về chính sự sống của Thiên Chúa: sự sống Thần Linh. Chúa Thánh Linh (Đấng ở trong Thiên Chúa) là hơi thở yêu thương, Ân Sủng tuyệt đối (không phải tạo thành) của các Ngôi Thiên Chúa; khi hành động trong Việc Nhập Thể của Ngôi Lời, Chúa Thánh Linh là hơi thở của tình yêu này dành cho nhân loại: dành cho chính Chúa Giêsu, cho bản tính nhân loại và cho toàn thể nhân loại. Hơi thở Thánh Linh (Thần Khí) diễn tả tình yêu của Chúa Cha. “Chúa Cha yêu thương thế gian quá đỗi đến độ đã ban chính Con một của Ngài...” (tc. Jn 3:16). Sự sung mãn của hồng ân sự sống thần linh dành cho nhân loại trong Chúa Con.
Đây là điều, trong Tông Huấn Dominum et Vivifi- cantem, cha đã gọi là “sự viên mãn đặc biệt việc hiệp thông chính mình của Chúa Ba Ngôi trong Chúa Thánh Linh” (số 50). Sự kiện này là ý nghĩa sâu xa nhất của “ngôi hiệp (hypostatic union, việc kết hiệp thiên tính với nhân tính của Chúa Kitô)”. Đây là một công thức phản ánh tư tưởng các Công Đồng và Giáo phụ về mầu nhiệm Nhập Thể, những ý niệm về bản chất và ngôi vị, được trình bày chi tiết và sử dụng trên căn bản phân biệt giữa bản chất và chủ thể mà mỗi người cảm nghiệm (nhận thức) được trong chính mình. Ý tưởng về ngôi vị trước kia không khi nào được cá nhân hóa và định nghĩa rõ ràng như đã xảy ra trong công việc của các Công Đồng, chỉ một lần các thánh tông đồ và các thánh sử cho biết về biến cố và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời “do quyền năng Chúa Thánh Linh.”
Vì thế chúng ta có thể nói trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Linh đã đặt nền tảng cho một khoa nhân chủng học mới, rọi ánh sáng trên sự cao cả của bảnh tính nhân loại như được chiếu sáng trong Chúa Kitô. Trong Chúa Kitô, bản tính nhân loại đạt tới tột đỉnh trong việc kết hiệp với Thiên Chúa, “bẩm thai do quyền năng Chúa Thánh Linh theo cách mà cũng một chủ thể duy nhất đó có thể là Con Thiên Chúa và là Con người” (tc. Summa Theol., III. q, 2, a.12, ad 3). Không thể nào con người có thể vươn lên cao hơn tột đỉnh này, cũng không thể nào tư tưởng nhân loại có thể cưu mang sự kết hiệp thân mật hơn với thiên tính.
Buổi gặp chung ngày 23 tháng Năm, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Kitô Là Đấng Toàn Thánh
“Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Trinh Nữ. Vì thế con trẻ sinh ra sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Như chúng ta biết, thiên sứ nói với Đức Maria những lời trên đây khi loan báo thiên ý tại Nazareth. Những lời đó đề cập tới mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Con-Ngôi Lời do quyền năng Chúa Thánh Linh. Những lời đó cũng đề cập tới chân lý căn để đức tin của chúng ta trong chủ đề các bài giáo lý trước. Do quyền năng Chúa Thánh Linh, việc ngôi hiệp được thể hiện: Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha mặc lấy nhân tính từ Đức Trinh Nữ Maria, thế nên Ngài trở nên con người thực mà vẫn là Thiên Chúa thực. Việc kết hiệp thiên tính với nhân tính trong một Ngôi Vị của Ngôi Lời-Chúa Con là việc ngôi hiệp (hypostatic union) (hypostasis: “ngôi vị, bản thể”) và sự hoàn thành vĩ đại nhất của Chúa Thánh Linh trong lịch sử tạo thành vũ trụ và cứu độ nhân thế. Mặc dầu cả Ba Ngôi Thiên Chúa là nguyên do ngôi hiệp, sự kiện đó vẫn được Phúc Âm và các Giáo Phụ quy chiếu cho Chúa Thánh Linh, vì sự kiện đó là việc làm tối thượng thể hiện qua Tình Yêu của Thiên Chúa. Công trình này thể hiện với ân sủng tuyệt đối, ngõ hầu thông ban cho nhân tính của Chúa Kitô sự thánh thiện toàn vẹn. Tất cả hiệu năng này đều quy kết cho Chúa Thánh Linh (tc. Summa Theol, III, q. 32, a. 1).
Những lời thiên sứ nói với Đức Maria khi loan báo thiên ý (mầu nhiệm Truyền Tin) cho thấy Chúa Thánh Linh là nguồn sự thánh thiện của Nam Tử sẽ được Đức Maria sinh ra. Trong giây phút Ngôi Lời Hằng Hữu trở thành con người, sự sung mãn độc nhất về thánh thiện của nhân tính kiện toàn trong bản tính được mặc lấy (bản tính nhân loại của Ngôi Lời nhập thể), một sự viên dung vượt quá sự sung mãn của bất cứ vị thánh nào khác, không phải chỉ trong thời cựu ước mà cũng cả tân ước nữa. Sự thánh thiện này của Con Thiên Chúa làm người và làm Quí Tử của Đức Maria: một sự thánh thiện phát xuất từ uyên nguyên, từ việc ngôi hiệp, là công cuộc của Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh tiếp tục hoạt động trong Chúa Kitô tới khi tôn vinh kiệt tác của Ngài trong mầu nhiệm Phục Sinh.
Sự thánh thiện này là kết quả của việc tận hiến duy nhất mà chính Chúa Kitô đã nói rõ với những người nghe Ngài: “Làm sao các người có thể cho rằng Đấng mà Chúa Cha đã thánh hiến và phái đến thế gian nói phạm thượng được vì Tôi đã nói: ‘Tôi là Con Thiên Chúa’?” (Jn 10:36). Việc thánh hiến (nghĩa là thánh hóa) này được nối kết với việc Con Thiên Chúa đến trần gian. Vì Chúa Cha phái Chúa Con đến thế gian qua quyền năng Chúa Thánh Linh (thiên sứ nói với thánh Giuse: “Chính do quyền năng Chúa Thánh Linh mà con trẻ này đã được bẩm thai trong lòng Người (Đức Maria),” Mt 1:20), như thế Chúa Cha thánh hiến nhân tính của Chúa Con qua việc làm của Chúa Thánh Linh.
Chúa Thánh Linh thánh hiến tất cả mọi người. Chúa Thánh Linh đặc biệt chủ động việc thánh hiến Nam Tử được Đức Maria thụ thai và sinh ra, cũng như thánh hóa mẹ cực trinh khiết của Ngài. Từ giây phút đầu tiên việc thụ thai Quí Tử này, Đấng là Con Thiên Chúa, Chúa Con Nhập Thể nhận từ Chúa Thánh Linh sự viên mãn thánh thiện siêu việt, theo mức độ tương xứng với địa vị Ngôi Thiên Chúa của Ngài (tc. Summa Theol., III., aa. 1, 9-11).
Việc thánh hiến này nói đến toàn thể nhân tính của Con Thiên Chúa, linh hồn và thân xác Ngài, như được Thánh Sử Gioan nói rõ ràng, ngài có vẻ nhấn mạnh đến khía cạnh thể xác của Việc Nhập Thể: “Ngôi Lời đã làm người (Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể)” (Jn 1:14). Quyền năng Chúa Thánh Linh trong việc Ngôi Lời nhập thể chế ngự dục vọng mà Thánh Phaolô đề cập đến trong Thư gửi giáo đoàn Roma (tc. Rom 7:7-25), dục vọng làm tổn thương con người từ nội tâm. “Luật của Thánh Linh (Luật Thần Khí)” (Rom 8:2) giải phóng người ta dứt khoát khỏi thứ dục vọng đó, ngõ hầu người nào sống trong Thần Khí thì cũng bước đi theo Thần Khí (tc. Gal 5:25). Sự thánh thiện toàn vẹn nhân tính Chúa Kitô là kết quả hành động của Chúa Thánh Linh.
Thể chất con người của Quí Tử Đức Maria chia sẻ trọn vẹn sự thánh thiện này nhờ năng động tính gia tăng đạt tới tột đỉnh trong mầu nhiệm Phục Sinh. Nhờ đó, thân xác Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô nói “giống như thân xác tội lỗi” (Rom 8:3), đạt được sự thánh thiện toàn hảo của thân xác Đấng Phục Sinh (tc. Rom 1:4). Nhờ đó số mệnh mới dành cho thân xác nhân loại được bắt đầu - và cho mọi thân xác trần thế, được Thiên Chúa tạo dựng và kêu gọi, ngay cả trong tính chất thế tục của nó, được chia sẻ mọi phúc lộc của ơn cứu độ (tc. Summa Theol., III, q. 8. a. 2).
Ở điểm này, cũng cần phải nói thêm rằng do quyền năng Chúa Thánh Linh, thân thể mà từ giây phút đầu tiên bẩm thai thuộc về nhân tính của Con Thiên Chúa, sau cùng trở nên lương thực thiêng liêng cho mọi tín hữu nam nữ trong Mầu Nhiệm Thánh Thể. Khi loan báo việc lập Nhiệm Tích kỳ diệu này, Chúa Giêsu Kitô nhấn mạnh trong đó thịt của Ngài (dưới hình bánh, dưới dạng miếng bánh) sẽ trở nên lương thực nuôi con người, nhờ việc làm của Chúa Thánh Linh Đấng ban sự sống.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ về vấn đề này ở gần Capernaum: “Chính Thần Khí (Thánh Linh) làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63). Trong khi Chúa Kitô để lại cho chúng ta thịt của Ngài (mình Ngài) làm lương thực tinh thần, Ngài muốn cùng một lúc dạy chúng ta về tình trạng thánh hiến và thánh thiện, do quyền năng Chúa Thánh Linh, đã và luôn luôn là một ưu tính của thân thể Ngài trong mầu nhiệm Nhập Thể và Nhiệm Tích Thánh Thể.
Thánh Sử Luca, có lẽ nhắc lại những đối thoại riêng với Đức Maria, cho chúng ta biết, với tư cách là Con Người, “Chúa Giêsu ngày càng khôn ngoan, thêm tuổi và ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52; tc. Lc 2:40). Cũng tương tự như thế, chúng ta có thể nói về “sự trưởng thành” trong sự thánh thiện theo ý nghĩa một minh họa đầy đủ hơn và hoàn tất sự sung mãn thánh thiện căn bản mà từ đó Chúa Giêsu đến trần gian. Thời điểm thánh hiến Chúa Con (nhập thể) trong Chúa Thánh Linh được mạc khải cách đặc biệt vào lúc khởi đầu thi hành sứ mệnh thiên sai của Chúa Giêsu Nazareth: “Thánh Linh của Chúa ở trên Tôi vì Ngài đã xức dầu Tôi; Ngài đã phái Tôi đi” (Lc 4:18).
Họat động này biểu lộ sự thánh thiện mà một hôm ông Simon Phêrô cảm thấy phải nhìn nhận: “Lạy Chúa, xin rời xa con vì con là kẻ tội lỗi” (Lk 5:8). Và cũng vào dịp khác: “Chúng con phải tin và nhận biết Thầy là Con Thiên Chúa” (Jn 6:69).
Vì thế, điều huyền nhiệm nhưng thực tế của Việc Nhập Thể báo hiệu một sự thánh thiện mới đến thế gian. Sự thánh thiện của Chúa Con-Ngôi Lời, trong việc ngôi hiệp với nhân tính, thấm vào và thánh hiến toàn vẹn con người, linh hồn và thân xác, của Người Con Đức Maria. Do quyền năng Chúa Thánh Linh, sự thánh thiện của Con Người, Chúa Giêsu, tạo thành nguồn chính yếu và vĩnh cửu sự thánh thiện nơi nhân loại và lịch sử thế giới.
Buổi gặp chung ngày 6 tháng Sáu, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh hoạt động khi Đức Maria đi thăm viếng
Chân lý về Chúa Thánh Linh được chỉ dạy rõ ràng trong các văn bản Phúc Âm về những giai đoạn trong cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Chúng ta đã ngừng lại để suy niệm về việc Đức Maria thụ thai trinh khiết và sinh hạ Chúa Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Linh. Chúng ta phải chú ý tới những trang khác của Phúc Âm về những ngày Chúa Giêsu còn thơ ấu, vì những trang này tô đậm cách đặc biệt việc làm của Chúa Thánh Linh.
Một trong những giai đoạn này chắc chắn là đoạn thánh sử Luca tường thuật Đức Maria đến thăm viếng bà Elisabeth: “trong những ngày ấy Đức Maria gấp rút lên đường đi tới một thị trấn miền đồi núi thuộc xứ Judea” (Lc 1:39). Thị trấn này thường được hiểu là Ain-Karim, cách Jerusalem khoảng sáu cây số về phía tây. Đức Maria đến Ain-Karim để thăm viếng người chị em bà con là bà Elisabeth, bà này lớn tuổi hơn Đức Maria. Đức Maria đi tới nhà bà Elisabeth sau ngày được thông báo thiên ý (ngày truyền tin), và cuộc thăm viếng này hầu như bổ sung cho biến cố truyền tin. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Này, bà Elisabeth họ hàng của Trinh Nữ cũng đã thụ thai một con trai trong lúc tuổi già, bà ấy vốn là người son sẻ không thể sinh con mà lúc này có thai đã được sáu tháng; vì không điều gì Thiên Chúa không làm được” (Lc 1:36-37).
Đức Maria “vội vã” lên đường tới nhà bà Elisabeth, tất nhiên vì tình huyết mạch nên người thân yêu trẻ tuổi nóng lòng muốn giúp đỡ người chị trong ngày tháng nặng thai này. Một tình cảm liên đới nữ tính nở chan hòa trong tâm hồn nhạy cảm và trìu mến của Đức Maria, vốn là đặc điểm của những trường hợp như thế. Tuy vậy dựa vào hậu cảnh tâm lý này, có thể có một hiệp thông đặc biệt nảy sinh giữa Đức Maria và bà Elisabeth trong khi thiên sứ thông báo thiên ý. Người con trai mà bà Elisabeth sắp hạ sinh sẽ là vị tiền hô của Chúa Giêsu và là người sẽ làm phép rửa cho Chúa tại sông Jordan.
Trên căn bản hiệp thông tinh thần này chúng ta hiểu tại sao thánh sử Luca quá chú trọng nhấn mạnh đến hoạt động của Chúa Thánh Linh trong buổi gặp gỡ của hai bà mẹ tương lai: Đức Maria “vào nhà ông Zachariah và chào bà Elisabeth, (và) khi bà Elisabeth nghe lời Đức Maria chào, thai nhi nhảy mừng trong dạ bà, (và) bà Elisabeth được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (Lc 1:40-41). Bà Elisabeth cảm nghiệm hành động của Chúa Thánh Linh chan chứa trong lòng khi bà gặp Đức Maria. Việc đó liên kết với vận mệnh huyền nhiệm của người con trai bà Elisabeth đang cưu mang. Trước đó, khi đang thi hành chức vụ tư tế trong đền thờ, ông Zachariah, người cha của hài nhi, được thiên sứ báo tin ông sẽ có người con trai và cho ông biết: “Người con trai đó sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Linh ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1:15).
Trong cuộc thăm viếng, khi Đức Maria bước qua ngưỡng cửa nhà bà Elisabeth (và, cùng với Người, Chúa Đấng đã là “hoa trái của cung lòng Người” cũng đi qua ngưỡng cửa đó), là lúc bà Elisabeth cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Thánh Linh. Chính bà Elisabeth làm chứng việc này trong lời chào mừng gửi tới bà mẹ trẻ tuổi đến thăm viếng bà.
Theo Phúc Âm Thánh Luca, bà Elisabeth lớn tiếng reo mừng và nói: “Hiền muội được chúc phúc hơn mọi phụ nữ và hoa trái của lòng dạ hiền muội được chúc phúc. Và bởi đâu tôi được ơn trọng đại này, là Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi? Vì khi tai tôi nghe tiếng hiền muội chào, thì con trẻ trong lòng tôi nhảy mừng. Phúc thay hiền muội đã tin điều Chúa nói với hiền muội được thể hiện” (Lc 1:42-45).
Chỉ vài dòng, thánh sử cho chúng ta biết sự ngỡ ngàng của bà Elisabeth trước việc thai nhi nhảy mừng trong lòng bà, và ít ra bà cũng có chút lúng túng trong việc nhận hiểu đặc tính thiên sai của hài nhi mà Đức Maria đang cưu mang. Đoạn Phúc Âm Thánh Luca 1:42-45 cho thấy việc bà Elisabeth nhìn nhận lòng tin của Đức Maria vào mạc khải đã được Chúa tỏ cho Người. Bắt đầu bằng những lời này thánh Luca dùng tước hiệu thần linh “Chúa” trong câu “các việc làm của Chúa”, không phải chỉ nói về Thiên Chúa Đấng mạc khải và hứa hẹn, nhưng cũng nói về Con Đức Maria, là Chúa Giêsu. Trong Tân Ước tước hiệu đó được dành cho Chúa Giêsu đặc biệt là Đấng đã phục sinh (tc. Cv 2:36; Phil 2:11). Vào thời điểm đó (khi Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth) Ngài chưa giáng sinh. Nhưng bà Elisabeth cũng như Đức Maria đã nhìn thấy tính cách thiên sai cao cả của Ngài.
Điều này có nghĩa là bà Elisabeth, “được tràn đầy Chúa Thánh Linh,” đã hiểu sâu sắc mầu nhiệm Đấng Thiên Sai đến. Chúa Thánh Linh đã ban cho tâm hồn bà ơn soi sáng đặc biệt, chúng ta nhận thấy, trong lời bà chào Đức Maria. Bà Elisabeth nói như thể bà đã chứng kiến Biến Cố Truyền Tin (việc loan báo thiên ý) tại Nazareth. Trong những lời bà Elisabeth, bà đã định nghĩa căn cốt sự huyền nhiệm hoạt động trong Đức Maria vào lúc đó. Khi bà Elisabeth nói “Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi,” bà gọi thai nhi Đức Maria đang cưu mang trong lòng là “Chúa tôi.” Khi đó bà tuyên xưng chính Đức Maria “được chúc phúc hơn mọi phụ nữ’” và nói thêm: “Hiền Muội được chúc phúc vì đã tin.” Lời đó chẳng khác gì bà muốn nhắc tới thái độ và cung cách cư xử của người nữ tì của Chúa, Đức Maria đã đáp lời thiên sứ bằng lời xin vâng: “Xin thể hiện cho tôi theo lời thiên sứ!” (Lc 1:38).
Lời Thánh Luca cho thấy ngài tin Chúa Thánh Linh hoạt động, soi sáng và linh hướng cả Đức Maria và bà Elisabeth. Đúng như Chúa Thánh Linh đã giúp Đức Maria nhìn thấy mầu nhiệm của chức làm mẹ Đấng Thiên Sai xảy ra trong sự trinh khiết của Người, cũng thế Chúa Thánh Linh đã cho bà Elisabeth khả năng khám phá ra Đấng Thiên Sai mà Đức Maria đang cưu mang. Bà Elisabeth nhận biết sứ mệnh Đức Maria được mời gọi đảm nhiệm trong kế hoạch cứu độ: “Mẹ Thiên Chúa.” Và Chúa Thánh Linh ban cho bà năng lực nội tâm thúc đẩy bà “lớn tiếng reo” (Lc 1:42) cách phấn khởi và vui mừng mà điều đó là do Chúa Thánh Linh đem lại cho bà.
Bà mẹ của nhà giảng thuyết và tẩy giả tương lai tại sông Jordan quy chiếu niềm vui đó cho thai nhi bà cưu mang đã được sáu tháng bằng câu: “Con trẻ trong lòng tôi nhảy mừng.” Mẹ và con liên kết trong một hình thức cộng sinh tinh thần, trong đó sự hân hoan vui mừng của thai nhi lây sang bà mẹ người cưu mang thai nhi. Bà Elisabeth bật lên tiếng reo mừng để diễn tả niềm vui bà chia sẻ sâu đậm với con bà, như lời Thánh Luca làm chứng.
Nối tiếp lời Thánh Luca tường thuật, kinh ngợi khen, bài ca vui mừng Magnificat, từ linh hồn Đức Maria dâng lên. Trong lời ngợi khen Magnificat, Đức Maria cũng bày tỏ niềm vui của mình: “Linh hồn tôi vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi” (Lc 1:4-7). Vì Đức Maria trưởng thành theo lời Thiên Chúa nhờ đọc và suy niệm Sách Thánh, lúc đó Người cảm thấy từ đáy linh hồn Người trào dâng lên những câu thuộc ca vịnh của bà Anna, mẹ ông Samuel (tc. Sam 2:1-10) cũng như những câu khác trong Cựu Ước. Đức Maria tự do diễn tả những tâm tình của “người thiếu nữ Sion” đã hoàn toàn phát lộ trong Người.
Thánh sử biết điều này rõ ràng, dựa trên căn bản những đối thoại mà ngài trực tiếp hoặc gián tiếp chia sẻ với Đức Maria. Trong số những điều trao đổi chắc chắn phải có những tin tức về niềm vui mà hai bà mẹ chia sẻ với nhau trong cuộc gặp gỡ này, niềm vui đó là hoa trái tình yêu rộn ràng trong trái tim hai bà. Niềm vui đó là Thánh Linh - Tình Yêu Ba Ngôi, Đấng tỏ mình ra trước thềm “thời gian sung mãn” (Gal 4:4), mở đầu vào mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời. Sẵn có trong giây phút được chúc phúc đó điều Thánh Phaolô về sau nói đã được hoàn thành: “Hoa trái của Chúa Thánh Linh ... là yêu thương, hoan lạc và an bình” (Gal 5:22).
Buổi gặp chung ngày 13 tháng Sáu, 1990.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Hiến Dâng trong Đền Thánh
Theo trình thuật của Thánh Luca “Phúc Âm về những ngày thơ ấu của Chúa Giêsu”, Chúa Thánh Linh đã được nói đến không phải chỉ vào lúc truyền tin và khi Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth, như chúng ta đã thấy trong các bài giáo lý trước. Thánh sử cũng nói đến Chúa Thánh Linh trong cuộc dâng hiến Chúa Hài Đồng Giêsu trong Đền Thờ khi giáng sinh được bốn mươi ngày (tc. Lc 2:22). Những sự kiện trên là phần thứ nhất trong toàn thể những biến cố suốt cuộc đời Chúa Kitô, trong đó chân lý về mầu nhiệm Nhập Thể nối dài chân lý về sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Linh.
Thánh sử viết “khi tới ngày thi hành việc thanh tẩy theo luật Moses, ông bà đưa hài nhi lên Jerusalem hiến dâng lên Thiên Chúa” (Lc 2:22). Người Do Thái dâng lễ vật kèm theo việc hiến dâng con đầu lòng của mình trong Đền Thờ (tc. Lc 2:24) tượng trưng chuộc lại hài nhi đó, để hài nhi đã được dâng hiến, rồi chuộc lại, trở về sống với gia đình và dân mình. Điều này được mô tả (hoặc ít nhất là khuyến cáo) bởi luật Moses phải thi hành trong thời Cựu Ước (tc. Xh 13:2, 12-13, 15; Lev 12:6-8; Ds 18:15). Những người Do Thái đạo đức thực hành nghi lễ cổ xưa này.
Theo Thánh Luca, nghi lễ được cha mẹ Chúa Hài Đồng Giêsu cử hành theo luật là một cơ hội mới cho việc can thiệp của Chúa Thánh Linh, Đấng đã ban cho biến cố hiến dâng này ý nghĩa thiên sai, đưa vào đó mầu nhiệm Chúa Kitô Đấng Cứu Thế. Người trung gian được chọn cho mạc khải mới này là một cụ già thánh thiện, Thánh Luca viết về cụ như sau: “Lúc này có một người ở Jerusalem tên là Simeon. Cụ (Simeon) là một người chính trực và đạo đức, hằng trông chờ sự an ủi cho dân Israel, và Chúa Thánh Linh ở với cụ” (Lc 2:25). Vì thế, việc này xảy ra trong thành thánh và trong Đền Thờ mà toàn thể lịch sử Israel hướng về (nơi đó), và tại đó những niềm hy vọng dựa trên các lời hứa và tiên tri xưa hợp nhất làm một.
Cụ già Simeon hằng trông chờ “niềm an ủi cho Israel,” tức là Đấng Thiên Sai, đã được Chúa Thánh Linh chuẩn bị cách đặc biệt cho việc gặp “Đấng sẽ đến.” Chúng ta đọc lời Thánh Luca: “Chúa Thánh Thần ở trên ông,” nghĩa là hoạt động trong ông theo lối thông thường hằng ngày, và “đã cho ông biết ông sẽ không chết trước khi ông nhìn thấy Đấng Thiên Sai của Chúa” (Lc 2:26).
Theo lời Thánh Luca, giai đoạn trông chờ Đấng Thiên Sai, trong lòng cụ già Simeon chất chứa đầy ước mong, hy vọng và vững tin, cụ sẽ nhìn thấy Đấng Thiên Sai tận nhãn tiền là một chỉ dẫn về hoạt động của Chúa Thánh Linh linh hướng, soi sáng và chuyển động. Vào ngày Đức Maria và Dưỡng Phụ Giuse đưa Chúa Hài Đồng Giêsu lên Đền Thờ thì cụ già Simeon cũng tới, vì cụ “được Chúa Thánh Linh tác động” (Lc 2:27). Ơn linh hướng của Chúa Thánh Linh không những cho biết trước việc cụ Simeon gặp Đấng Thiên Sai, và không phải chỉ khuyên cụ lên đền thờ, nhưng cũng chuyển động và thúc giục cụ ra đi. Khi cụ tới Đền thờ, sự linh hướng đó giúp cụ nhận ra Đấng mà cụ đang trông chờ nơi Chúa Hài Đồng Giêsu, Con Đức Maria.
Thánh Luca viết “khi cha mẹ đưa hài nhi Giêsu vào để thực hành tục lệ (thi hành điều lề luật dạy) liên quan đến Ngài, ông (Simeon) ẵm hài nhi trong tay và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 2:27-28). Tới đây thánh sử kể lại cụ già Simeon ứng khẩu ca vịnh Nunc Dimittis (ca vịnh Simeon, Lc 2:29-32) mà mọi người đều biết. Phụng vụ dạy chúng ta hằng ngày nhắc lại lời đó vào cuối Thánh Lễ khi ý tưởng về thời gian viên mãn được đặc biệt cảm thấy. Những lời rất xúc động của cụ già Simeon, người đã gần lúc “ra đi bình an,” mở ra cánh cửa hy vọng luôn luôn mới mẻ trông chờ ơn cứu độ hoàn thành trong Chúa Kitô: “Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa, Chúa đã chuẩn bị trước mắt muôn dân, ánh sáng mạc khải cho Dân Ngoại và vinh quang cho dân Israel của Chúa” (Lc 2:30-32). Lời của lão trượng Simeon tiên báo việc rao giảng tin mừng khắp hoàn vũ, lớn tiếng loan báo ơn cứu độ xuất phát từ Jerusalem, từ Israel, do quyền năng Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, mà dân Ngài và muôn dân trông đợi.
Chúa Thánh Linh hoạt động trong cụ già Simeon cũng hiện diện và hoạt động trong những người, giống như cụ già thánh thiện đó, sống gần Thiên Chúa và tin tưởng nơi những điều Ngài hứa vào mọi thời đại. Thánh Luca cho chúng ta một thí dụ nữa về thực tại này và mầu nhiệm này. Thí dụ đó là nữ ngôn sứ Anna, bà đã sống góa bụa từ lúc còn trẻ, “không khi nào rời khỏi Đền thờ, nhưng ăn chay cầu nguyện thờ phượng ngày đêm” (Lc 2:37). Vì thế bà là một phụ nữ được thánh hiến cho Thiên Chúa và, trong ánh sáng Thần Linh Thiên Chúa, đặc biệt có khả năng hiểu được chương trình của Thiên Chúa và giải thích những điều Chúa truyền. Theo ý nghĩa này bà là một “nữ ngôn sứ” (tc. Xh 15:20, Tl 4:4; 2 Vua 22:14). Thánh Luca không nói rõ ràng về hành động của Chúa Thánh Linh ngự trong bà. Nhưng ngài liên kết bà với cụ già Simeon về lời chúc tụng Thiên Chúa và nói về Chúa Giêsu: “Và tiến lên vào chính lúc đó, bà tạ ơn Thiên Chúa và nói về hài nhi với tất cả mọi người đang trông chờ ơn cứu độ cho Jerusalem” (Lc 2:38. Cũng như cụ già Simeon, bà Anna hiển nhiên được Chúa Thánh Linh dẫn đưa tới gặp Chúa Giêsu.
Những lời tiên tri của cụ Simeon (và của bà Anna) không những chỉ loan báo Đấng Cứu Thế đến trần gian và việc Ngài hiện diện giữa dân Israel, mà cũng nói về hy sinh cứu độ của Ngài. Phần thứ hai của lời tiên tri đã hướng trực tiếp vào Đức Maria: “Con trẻ được ấn định là sự trỗi dậy và vấp ngã của nhiều người trong dân Israel, và là dấu chỉ sẽ bị chống đối, và phần chính bà một lưỡi gươm bén sẽ xuyên thấu để tư tưởng của nhiều người có thể được phơi bày” (Lc 2:34-35).
Chúng ta không thể không thấy Chúa Thánh Linh là Đấng linh ứng lời tiên tri dẫn thượng về Chúa Kitô chịu khổ nạn để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Cụ già Simeon cũng nói về những thống khổ và cực hình Chúa Kitô sẽ chịu khi tập trung tư tưởng của cụ vào tâm hồn (trái tim) Đức Maria, mà Người luôn đồng hóa với Con của Người trong việc chịu những chống đối của người Israel và khắp thế giới. Cụ Simeon không đề cập rõ ràng đến việc hy sinh trên thập giá, nhưng chuyền lời tiên tri sang trái tim Đức Maria, sẽ bị “lưỡi gươm bén xuyên thấu (trái tim),” là người đồng chia sẻ những thống khổ với Con của Người.
Những lời linh ứng của cụ Simeon còn có giá trị quan trọng hơn nữa nếu suy gẫm trong bối cảnh toàn thể “Phúc Âm về thời thơ ấu của Chúa Giêsu” theo Thánh Luca mô tả. Những điều đó xảy ra suốt cuộc đời Chúa Cứu Thế theo hành động đặc biệt của Chúa Thánh Linh. Nhờ đó dễ hiểu hơn lời tường thuật của thánh sử khi ngài nhắc đến sự ngạc nhiên của Đức Maria và Dưỡng Phụ Giuse đối với những biến cố đó: “Cha mẹ của hài nhi ngạc nhiên về những điều được nói về hài nhi” (Lc 2:33).
Thánh sử Luca, người tường thuật biến cố dâng hiến Chúa Hài Đồng trong Đền Thờ và những lời tiên tri của cụ Simeon cũng là tác giả Công Vụ Tông Đồ, mô tả biến cố Lễ Hiện Xuống: Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các tông đồ và môn đệ đang tụ họp trong căn phòng trên lầu cùng với Đức Maria sau khi Chúa về thiên đàng, như chính Chúa Giêsu đã hứa. Đọc “Phúc Âm về thời thơ ấu của Chúa Giêsu” cho thấy thánh sử cũng đặc biệt nhạy cảm đối với sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh trong mọi phương diện của mầu nhiệm Nhập Thể, từ giây phút đầu tiên tới giây phút cuối cùng cuộc đời Chúa Kitô.
Buổi gặp chung ngày 20 tháng Sáu, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh và Chúa Hài Đồng Giêsu
Thánh Luca kết thúc “Phúc Âm về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu” bằng hai đoạn văn bao gồm trọn vẹn thời thơ ấu và niên thiếu của Chúa. Giữa hai đoạn văn này là trình thuật biến cố lạc mất và tìm lại được Chúa Giêsu trong Đền Thờ trong chuyến Thánh Gia đi hành hương. Không đoạn nào trong hai đoạn này nói rõ ràng đến Chúa Thánh Linh. Nhưng sự liên ý và trình thuật của thánh Luca giúp bất cứ ai, theo dõi lời tường thuật về những biến cố lúc ấu thơ và tiếp tục đọc chương kế tiếp về Gioan Tiền Hô rao giảng và Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jordan, đều thấy rõ Chúa Thánh Linh là chủ chốt vô hình (tc. Lc 3:16,22). Phần này kết thúc những năm thơ ấu của Chúa Giêsu trong hành động của Chúa Thánh Linh. Những năm đó Chúa sống ẩn dật tại Nazareth. Thần học về ân sủng và ơn Chúa Thánh Linh giúp chúng ta thấu triệt mầu nhiệm này, chiều kích chính xác nhất về nhân tính của Chúa Giêsu.
Sau khi cho chúng ta biết những sự việc xảy ra trong Đền Thờ, và nghi lễ dâng hiến hoàn tất, thánh sử ghi thêm: “các ngài trở lại Galilee, về thị trấn quê hương Nazareth. Và Con Trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ tráng kiện, khôn ngoan và ân sủng Thiên Chúa ở với Ngài” (Lc 2:40). Lại một lần nữa, vào cuối phần tường thuật cuộc hành hương lên Đền Thờ và trở về Nazareth, thánh sử nói: “... Và Chúa Giêsu trưởng thành khôn ngoan và thêm ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52). Từ những đoạn Phúc âm này chúng ta thấy có sự phát triển nhân tính thực sự nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời hằng hữu (của Chúa Cha), đã mặc bản tính nhân loại qua việc Đức Maria bẩm thai và sinh hạ. Tuổi sơ sinh, ấu thơ, niên thiếu và thanh niên là những giai đoạn tăng trưởng thể chất (“theo tuổi tác”), đúng y như những người được “sinh ra bởi người nữ,” theo lời Thánh Phaolô (tc. Gal 4:4).
Theo lời Thánh Luca, cũng có sự trưởng thành tinh thần trong Chúa Giêsu. Vốn là một lương y từng học biết về con người, ngài cố gắng ghi lại toàn thể thực tại dữ kiện biến chuyển của con người, bao gồm việc phát triển của các hài nhi, trong trường hợp Chúa Giêsu và Thánh Gioan Tẩy giả. Thánh Luca viết về Thánh Gioan Tẩy giả: “con trẻ lớn lên và tinh thần mạnh mẽ” (Lc 1:80). Thánh Luca nói đặc biệt nhiều hơn về Chúa Giêsu “Con Trẻ lớn lên, tráng kiện và tràn đầy khôn ngoan”; “Con Trẻ càng lớn càng khôn ngoan ... và đẹp lòng Thiên Chúa và người ta” và ông nói tiếp, “ân sủng Thiên Chúa ở trên Ngài” (Lc 2:40, 52).
Theo thuật ngữ của thánh sử, việc “(Chúa Thánh Linh) ngự trên” một người mà Thiên Chúa tuyển chọn để thi hành sứ mệnh được quy chiếu vào Chúa Thánh Linh, như trong trường hợp Đức Maria (tc. Lc 1:35) và cụ già Simeon (tc. Lc 2:26). Điều này khai triển siêu việt tính, uy quyền và hành động thâm sâu bao la của Đấng chúng ta tuyên xưng là Dominum et vivificantem (Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống). Vẫn theo Thánh Luca, ân sủng “ở trên” Chúa Giêsu và trong đó Ngài “lớn lên,” dường như nói về sự hiện diện và hành động huyền nhiệm của Chúa Thánh Linh mà Chúa Giêsu đã sống trong đó, theo lời tuyên xưng của vị Tẩy Giả mà cả bốn Phúc Âm đều tường thuật (tc. Mt 3:11; Mc 1:8; Lc 3:16; Jn 1:33).
Truyền thống giáo phụ và thần học giúp chúng ta hiểu và giải thích lời Thánh Luca về “sự trưởng thành” của Chúa Giêsu “trong sự khôn ngoan và ân sủng” liên quan tới Chúa Thánh Linh. Khi nói về ân sủng, rất nhiều lần Thánh Thomas gọi đó là gratia Spiritu Sancti (tc. Suma Theol., I-II, q. 106, a. 1), một ân được ban nhưng không (mà ơn đó) diễn tả và củng cố ân sủng Thiên Chúa dành cho thụ tạo được Thiên Chúa Cha yêu thương từ thuở đời đời (tc. Summa Theol., I, q. 37, a. 2; .110, a. 1). Khi nói về căn nguyên ân sủng, ngài nói cách mạch lạc: “căn nguyên chính là Chúa Thánh Linh” (tc. Summa Theol., I-II, q. 112, a. 1, ad 1,2).
Ơn công chính hóa và thánh hóa đưa con người trở về làm bằng hữu với Thiên Chúa, trong nước trời (tc. Summa Theol., I-II, q. 111, a. 1). “Chính nhờ hồng ân này mà chúng ta hiểu sứ mệnh của Chúa Thánh Linh và việc Ngài ở trong con người” (I, q. 43, a. 3). Do việc kết hiệp nhân tính với Ngôi Lời Thiên Chúa và tính chất tuyệt đối cao quí của linh hồn cực thánh Chúa Kitô cùng sứ mệnh thánh hóa và cứu độ toàn thể nhân loại, mà Chúa Thánh Linh tuôn đổ ân sủng tràn đầy nhân tính Chúa Kitô. Thánh Thomas xác nhận điều này dựa trên căn bản lời ngôn sứ Isaiah nói về Đấng Thiên Sai: “Thần Linh của Chúa sẽ ngự trên Ngài” (Is. 11:2): “Thánh Linh ở trong con người nhờ thường sủng (hoặc ơn thánh hóa)” (Summa Theol., III,q.7,a.1, sed contra); và dựa trên văn bản khác trong Phúc Âm Thánh Gioan: “(Và) chúng tôi đã thấy vinh quang Ngài; vinh quang của Con Một Thiên Chúa Cha, tràn đầy ân sủng và chân lý” (Jn 1:14) (Summa Theol., III, q. 7, aa. 9-10). Tuy nhiên, ân sủng sung mãn trong Chúa Giêsu luôn luôn tràn đầy và càng ngày càng đầy lên theo tuổi tác.
Chúng ta có thể nói được như thế về sự khôn ngoan tràn đầy mà Chúa Kitô sở hữu ngay từ thuở ấu thời. Ngài càng lớn tuổi thì sự sung mãn của Ngài càng tăng tiến. Sự tăng tiến này không phải chỉ là sự thông minh trác tuyệt của nhân thế, mà là Thiên Chúa tuôn đầy thần linh vào nhân tính Chúa Kitô qua việc hiệp thông Ngôi Lời ở trong nhân tính của Ngài. Và trên hơn hết, chúng ta cũng coi ơn khôn ngoan là đặc ân của Chúa Thánh Linh: đặc ân vĩ đại nhất trong tất cả mọi đặc ân, ơn đó là “sự toàn thánh các khả năng của linh hồn, đặt những khả năng đó dưới sự chuyển động hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Bây giờ chúng ta biết rất rõ tại sao Phúc Âm nói rằng linh hồn Chúa Kitô được Chúa Thánh Linh hướng dẫn chuyển động cách toàn hảo nhất. Thánh Luca cho biết ‘Chúa Giêsu, được tràn đầy Chúa Thánh Linh, lên khỏi sông Jordan và được Chúa Thánh Linh hướng dẫn đi vào hoang địa’ (Lc 4:1). Vì thế, những đặc ân đó ở trong Chúa Kitô cách trọn vẹn nhất” (Summa Theol., III, q. 7, a. 5). Ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Linh là đặc sủng thượng thặng trong mọi ân sủng.
Chúng ta muốn nói tiếp về những văn phẩm tuyệt vời của Thánh Thomas, cũng như của các thần học gia khác đã nghiên cứu sự cao cả tột đỉnh của linh hồn Chúa Giêsu, nơi mà Chúa Thánh Linh hiện diện và họat động cách toàn hảo từ thuở ấu thơ và suốt thời gian phát triển của Chúa. Ở đây chúng ta chỉ có thể nói đến lý tưởng huyền diệu của sự thánh thiện mà Chúa Giêsu ban tặng cho cuộc đời của toàn thể nam phụ lão ấu. Mọi người được kêu gọi “lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta,” như Thánh Luca viết về Chúa Giêsu lúc niên thiếu tại Nazareth. Cũng Thánh Luca sau này viết trong Công Vụ Tông Đồ về Giáo Hội sơ khai “được xây dựng và bước đi trong sự kính sợ Chúa, và được Chúa Thánh Linh an ủi” (Cv 9:31). Sự kiện trên đây là một so sánh tuyệt vời, không những chỉ là một lặp lại theo ngữ học, nhưng cũng là một ý niệm, về mầu nhiệm ân sủng mà Thánh Luca nhìn thấy hiện diện cả nơi Chúa Giêsu và nơi Giáo Hội như là một sự tiếp nối không ngừng của cuộc sống và sứ mệnh của Ngôi Lời Nhập Thể trong lịch sử. Lịch sử và khoa tầm tích hiển thánh (lịch sử các thánh) cho chúng ta thấy nhiều con cái Giáo Hội được soi sáng và tác động đặc biệt để chia sẻ và có vai trò hàng đầu trong việc Giáo Hội phát triển dưới linh hướng của Chúa Thánh Linh. Trong thời đại chúng ta, Giáo Hội cũng hân hoan chào mừng các ngài và giới thiệu các ngài là những hình ảnh rực sáng đặc biệt của Chúa Giêsu lúc thanh xuân, được tràn đầy Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 27 tháng Sáu, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh chỉ dạy Đức Maria
Trong Phúc Âm Thánh Luca, chúng ta tìm thấy một mẫu mực về đức khôn ngoan và ân sủng khi Thiếu Niên Giêsu thảo luận với các vị tiến sĩ trong Đền Thờ. Thánh Luca đề cập câu chuyện này giữa hai đoạn về Chúa Giêsu lớn lên “trước mặt Thiên Chúa và mọi người.” Thánh sử cũng không nói rõ về Chúa Thánh Linh trong đoạn này, nhưng hành động của Ngài dường như rực sáng xuyên thấu những sự việc xảy ra trong biến cố đó. Thánh sử nói “tất cả mọi người nghe Cậu nói đều ngạc nhiên vì sự hiểu biết và những đối đáp của Cậu” (Lc 2:47). Những người đó ngạc nhiên vì ơn khôn ngoan từ trên ban xuống (tc. Tl 3:15, 17; Jn 3:34), nghĩa là do Chúa Thánh Linh.
Sau khi tìm kiếm Thiếu Niên Giêsu ròng rã ba ngày, cha mẹ Cậu đã tìm thấy Cậu trong Đền thờ đang ngồi giữa các vị tiến sĩ. Lời các ngài hỏi Thiếu Niên Giêsu cũng có ý nghĩa quan trọng. Đức Maria âu yếm than phiền với Thiếu Niên Giêsu: “Này con, sao con làm cho cha mẹ như thế này? Con có biết cha con và mẹ đã lo lắng ròng rã ngày đêm tìm con?” Thiếu Niên Giêsu đáp lại bằng câu hỏi quan trọng khác: “Cha mẹ tìm Con làm chi? Cha mẹ không biết Con phải ở nhà Cha Con sao?” (Lc 2:48-49). Trong câu nói: “cha mẹ không biết ...” có thể hàm ngụ một dẫn chiếu tới điều cụ già Simeon đã tiên báo cho Đức Maria trong khi dâng hiến Hài Nhi Giêsu trong Đền Thờ. Điều đó dường như báo trước trước sự chia ly sau này về vết thương đầu tiên lưỡi gươm bén xuyên thấu trái tim hiền mẫu. Có thể nói những lời cụ già thánh thiện Simeon đã được Chúa Thánh Linh soi dẫn, một lần nữa lại vang lên vào thời điểm Thánh Gia hiện diện trong Đền Thờ, nơi các ngài đã được báo cho biết mười hai năm trước.
Nhưng lời Chúa Giêsu đáp lại cũng biểu lộ rõ ràng Ngài ý thức mình là “Con Thiên Chúa” (tc. Lc 1:35) và như thế nhiệm vụ của Ngài “ở” Đền Thờ là “nhà của Cha Ngài” để “lo việc của Cha Ngài” (theo một bản chuyển ngữ khác về câu Phúc Âm Lc 1:35). Như thế có lẽ đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu công khai tuyên bố địa vị Thiên Sai và Thần Linh của Ngài. Sự kiện quan trọng này xảy ra nhờ uy lực tri thức và khôn ngoan, mà ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh đã tưới rót vào linh hồn Ngài, hằng kết hợp với Ngôi Lời Thiên Chúa. Vào lúc đó Ngài nói như người “được tràn đầy Chúa Thánh Linh.”
Thánh Luca nhắc đến sự kiện Đức Maria và Dưỡng Phụ Giuse “không hiểu điều Thiếu Niên Giêsu nói với các ngài” (Lc 2:50). Các ngài ngạc nhiên về những gì các ngài mục kích và cảm thấy là vì các ngài chưa thoát ra khỏi “tình trạng bối rối”. Nhưng chúng ta phải chú ý nhiều hơn nữa là Thánh Giuse và đặc biệt là Đức Maria đang đứng trước mầu nhiệm Nhập Thể và cứu độ. Mặc dầu các ngài đã tham gia vào mầu nhiệm đó, nhưng không có nghĩa là các ngài đã thấu triệt lắm. Tuy nhiên các ngài cũng ở trong ánh sáng và bóng mờ của đức tin. Đức Maria là người đầu tiên đi trên con đường hành trình đức tin (tc. Redemptoris Mater, các số 12-19). Đức Maria là người được soi sáng nhất, nhưng cũng là người phải đương đầu với thử thách nhiều nhất trong việc chấp nhận mầu nhiệm. Nhiệm vụ của Người là trung thành với chương trình của Thiên Chúa mà Người thờ lạy và âm thầm chiêm niệm. Thánh Luca nói thêm: “Thân mẫu Ngài ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2:18-19).
Ở đây chúng ta nghe vang lên những lời Đức Maria tuyên xưng niềm tin vững vàng. Chúng ta có thể gọi những lời đó là “những tiết lộ” của Người cho Thánh Luca và cho Giáo Hội sơ khai mà từ đó chúng ta nhận được “Phúc Âm về lúc sơ sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu.” Đức Maria nhớ thuộc lòng và tìm hiểu những sự kiện đó, nhưng hơn hết là Người tin và suy gẫm trong lòng. Đối với Đức Maria, việc chia sẻ mầu nhiệm Chúa Giêsu không phải chỉ gồm có việc chấp nhận và giữ mầu nhiệm đó cách thụ động. Đức Maria vận dụng nỗ lực của mình: “(Người) suy gẫm,” một từ ngữ gốc Hy Lạp là symballein, nghĩa đen là gộp chung lại với nhau, là so sánh. Đức Maria cố gắng nối kết, suy gẫm các biến cố và những lời nói để nắm vững được ý nghĩa những sự việc đó nhiều bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Những suy gẫm này, việc âm thầm học hỏi này, xảy ra dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh. Đức Maria là người đầu tiên hưởng linh quang mà một ngày kia Chúa Giêsu Nam Tử của Người hứa ban cho các môn đệ: “Đấng An Ủi, Chúa Thánh Linh mà Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy sẽ dạy anh em mọi sự và nhắc anh em nhớ mọi điều Thầy đã dạy anh em” (Jn 14:26). Chúa Thánh Linh, Đấng làm cho Giáo Hội và các tín hữu hiểu ý nghĩa và giá trị những lời Chúa Kitô, đã luôn luôn hoạt động trong Đức Maria, Đấng là Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể là Sedes Sapientiae, Hiền Thê của Chúa Thánh Linh, người cưu mang và người nữ trung gian đầu tiên của Phúc Âm liên quan đến nguồn gốc Chúa Giêsu.
Ngay cả trong những năm về sau ở Nazareth, Đức Maria ghi nhớ trong lòng mọi điều liên quan đến nhân vị, đến số phận Nam Tử của Người và âm thầm suy niệm. Có lẽ Người không nói những điều đó với ai. Có lẽ chỉ trong một vài trường hợp đặc biệt nào đó Đức Maria hiểu được ý nghĩa của những lời nói và những ánh mắt của Chúa Con. Nhưng trong sâu thẳm linh hồn Đức Maria, Chúa Thánh Linh luôn luôn nhắc nhở Người ghi nhớ những điều Người đã thấy và trải qua. Trí nhớ của Đức Maria được soi sáng từ trời cao. Ánh sáng đó là uyên nguyên phần tường thuật của thánh Luca, và dường như muốn cho chúng ta hiểu bằng cách nhấn mạnh sự kiện Đức Maria ấp ủ những điều này và suy gẫm. Dưới ảnh hưởng việc làm của Chúa Thánh Linh, Đức Maria có thể khám phá ra ý nghĩa cao cả hơn những lời nói và biến cố đó, qua suy niệm, để “tập hợp mọi thứ lại với nhau.”
Tóm lại Đức Maria đến với chúng ta như một tấm gương cho những người, tựa như hạt giống tốt (tc. Mt 13:23), để cho mình được Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Những người đó chấp nhận, ấp ủ trong lòng những điều mạc khải và tận lực tìm hiểu ý nghĩa những điều đó ngõ hầu thấm sâu vào mầu nhiệm Chúa Kitô.
Buổi gặp chung ngày 4 tháng Bảy, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Hoạt Động của Chúa Thánh Linh khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Trong cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, Đấng được Chúa Thánh Linh xức dầu thánh hiến (tc. Lc 4:18), có những giai đoạn quan trọng cho thấy Ngôi Vị Chúa Thánh Linh kết hiệp mật thiết với nhân tính và sứ mệnh của Chúa Kitô. Chúng ta đã thấy giai đoạn đầu tiên là việc Ngôi Lời nhập thể. Mầu nhiệm Nhập Thể xảy ra qua việc Đức Trinh Nữ Maria thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Linh: “Conceptu de Spiritu Sancto, natus ex Maria Virgine,” như kinh Tin Kính tuyên xưng.
Giai đoạn khác là khi Chúa Thánh Linh hiện diện và hành động rõ ràng vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Jordan. Hôm nay chúng ta đề cập đến giai đoạn đó trong bài giáo lý này.
Tất cả các thánh sử đều kể lại biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Jordan (tc. Mt 3:13-17; Mc 1:9-11; Lc 3:21-22; Jn 1:29-34). Chúng ta cùng nhau đọc đoạn Phúc Âm theo Thánh Marcô: “Nguyên ủy của sự việc ấy là Chúa Giêsu từ Nazareth xứ Galilee đến để được ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho tại Sông Jordan. Khi lên khỏi nước, Ngài thấy trời mở ra và Thánh Linh, như chim bồ câu, ngự xuống trên Ngài” (Mc 1:9-10). Sau những năm tháng “ẩn dật” ở Nazareth, Chúa Giêsu đã đến Sông Jordan. Trước khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài. Ông Gioan cũng liên tiếp kêu gọi người ta đến nhận “phép rửa ăn năn thống hối.” Ông Gioan Tẩy Giả rao giảng: “Đấng quyền thế hơn tôi sẽ đến sau tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài. Tôi làm phép rửa anh chị em bằng nước, Ngài sẽ thanh tẩy anh chị em bằng Chúa Thánh Linh” (Mc 1:7-8).
Tới đây chúng ta đã bước vào ngưỡng cửa của giai đoạn thiên sai. Với lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, giai đoạn chuẩn bị lâu dài đã chấm dứt. Theo các Sách Thánh kể lại thì giai đoạn chuẩn bị đó xảy ra xuyên suốt thời Cựu Ước và qua dòng lịch sử nhân loại. Ông Gioan Tẩy giả cảm thấy tầm quan trọng vĩ đại của thời điểm quyết định đó, nên ông giải thích đây là lúc khởi đầu công cuộc tạo dựng mới. Trong công cuộc tạo dựng mới đó, ông Gioan khám phá ra sự hiện diện của Thánh Linh Đấng đã bay lượn trên đệ nhất tạo vật (tc. Jn 1:32; Stk 1:2). Ông Gioan (Tẩy Giả) biết mình là ai và tuyên bố chính ông chỉ là tiếng kêu, người tiền hô và thừa tác của Đấng sẽ đến để “thanh tẩy (làm Phép Rửa) bằng Chúa Thánh Linh.”
Về phần Ngài, Chúa Giêsu đắm mình trong việc cầu nguyện cho thời điểm vô cùng trọng đại đó của lịch sử ơn cứu độ. Trong lịch sử cứu độ, Chúa Thánh Linh, Đấng từ Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con mà ra theo mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, đã tự mình hiển lộ; Dầu rằng chỉ dưới những dấu hiệu tiêu biểu hiện diện trong nhân tính của Chúa Kitô. Và đó chính là nguyên lý của sự sống Thần Linh. Chúng ta đọc trong Phúc Âm Thánh Luca: “Trong Khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì trời mở ra và Chúa Thánh Linh trong hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài” (Lc 3:21-22). Cũng thánh sử Luca về sau kể lại một hôm, trên đường qua xứ Palestine, Chúa Giêsu dạy những người theo Ngài cách cầu nguyện, đã nói: “Chúa Cha trên trời sẽ ban Chúa Thánh Linh cho những kẻ nào kêu xin Ngài” (Lc 11:13). Chính Chúa Giêsu xin được ơn trọng đại nhất trong các ân sủng này để thi hành sứ mạng thiên sai của Ngài. Khi chịu phép rửa tại sông Jordan, Chúa Giêsu đã lãnh nhận ân sủng đó cách hữu hình, đặc biệt rõ ràng. Việc Chúa Thánh Linh hiển lộ rõ ràng đó đánh dấu “việc tấn phong” thiên sai của Chúa Giêsu Nazareth trước sự hiện diện của ông Gioan Tẩy Giả và những người nghe ông giảng. Trước mặt dân chúng Israel, Vị Tẩy Giả làm chứng Chúa Giêsu Nazareth “là Đấng Thiên Sai”, nghĩa là Đấng “được xức dầu bằng Chúa Thánh Linh” (DViv 19).
Thiên Chúa Cha nhận lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, Đấng mà trong Ngôi Vị Thần Linh là Con Thiên Chúa Hằng Hữu, nhưng hành động và cầu nguyện trong bản chất nhân loại của Ngài. Một hôm chính Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Con biết Cha luôn luôn nghe lời Con” (Jn 11:42). Ý thức này vang lên cách đặc biệt trong Chúa Giêsu vào lúc chịu phép rửa, điểm khởi đầu sứ mệnh cứu độ của Ngài, như ông Gioan (Tẩy Giả) hiểu và tuyên xưng. Ông Gioan (Tẩy Giả) giới thiệu Chúa Giêsu: Đấng đến để “làm Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh” (Mt 3:11) là “chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian” (Jn 1:29).
Thánh Luca cho chúng ta biết sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Jordan thì “trời mở ra” (Lc 3:21). Đã có lần ngôn sứ Isaiah kêu cầu Thiên Chúa: “Xin Chúa xé trời ra mà ngự xuống” (Is 63:19). Tại đây vào giây phút Chúa Giêsu chịu phép rửa, dường như Thiên Chúa nghe và đáp ứng tiếng kêu van cùng lời cầu xin này. Việc trời mở ra nối kết với việc Chúa Thánh Linh trong hình chim bồ câu ngự xuống trên Chúa Kitô. Sự kiện này là dấu chỉ hữu hình cho thấy Thiên Chúa đã lắng nghe lời cầu nguyện của ngôn sứ Isaiah và lời ngài tiên tri hoàn tất. Dấu chỉ đó kèm theo tiếng nói từ trời: “Và tiếng nói từ trời: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha rất hài lòng về Con’” (Mc 1:11, Lc 3:22). Bởi thế dấu chỉ đó đã trở nên hữu hình, chim bồ câu, và âm thanh, tiếng nói, cho những người được hưởng biến cố siêu nhiên đặc biệt đó. Việc biểu lộ rõ ràng bề ngoài sự hài lòng của Chúa Cha hằng hữu nơi Chúa Con minh họa rõ ràng nhất nơi linh hồn Chúa Kitô, nhưng cũng cả nơi những người hiện diện tại sông Jordan. Như thế một cuộc thần hiển đã xảy ra khi Chúa Giêsu phép rửa tại sông Jordan. Bản tính Thiên Chúa Ba Ngôi được minh họa đậm nét hơn nữa trong lời tường thuật về biến cố truyền tin, loan báo Thiên Chúa muốn Đức Maria ưng thuận cưu mang Con Thiên Chúa nhập thể. Việc “trời mở ra” vào lúc đó có nghĩa là một sự khởi đầu truyền thông của Chúa Cha và Chúa Thánh Linh với thế giới qua việc khai mạc đạo giáo và phụng vụ về sứ mệnh thiên sai của Ngôi Lời Nhập Thể.
Trong Phúc Âm Thánh Gioan, sự việc xảy ra khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đã được chính Vị Tẩy Giả mô tả: “Tôi đã thấy Thánh Linh tựa như chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Ngài. Tôi vốn không biết Ngài, nhưng Đấng phái tôi đi làm phép rửa bằng nước đã phán bảo tôi, ‘ngươi thấy Thánh Linh xuống ngự trên ai, thì vị ấy là Đấng sẽ làm phép rửa bằng Chúa Thánh Linh.’ Bây giờ tôi đã thấy và làm chứng Ngài là Con Thiên Chúa” (Jn 1:32-34). Theo thánh sử, điều đó có nghĩa là ông Gioan Tẩy Giả chia sẻ việc được chiêm ngưỡng Thần Hiển Tam Vị (Thiên Chúa Ba Ngôi hiện ra) và hiểu (ít nhất là một phần, theo niềm tin vào Đấng Thiên Sai) ý nghĩa quan trọng của những lời Chúa Cha đã phán: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha rất hài lòng về Con.” Hơn nữa, trong Phúc Âm của các thánh sử khác cũng thế, hiển nhiên là từ ngữ “Con” được dùng thay cho từ ngữ “người tôi tớ” nói trong lời ca thứ nhất của ngôn sứ Isaiah về Người Tôi Tớ Thiên Chúa: “Đây là người tôi tớ mà Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quí mến hết lòng, Ta cho Thần Khí (của) Ta ngự trên người đó; người đó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân” (Is 42:1).
Trong đức tin được Thần-ứng của các ngài và của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, người tôi tớ đã đồng hóa với Con Thiên Chúa (tc. Mt 12:18; 16:16) và Thần Khí (Thánh Linh) trong ngôi vị thần linh của Ngài được nhìn nhận là Chúa Thánh Linh. Trước ngày chịu khổ nạn cứu chuộc, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ rằng chính Chúa Thánh Linh Đấng ngự xuống trên Ngài tại Sông Jordan sẽ cùng với Ngài hoạt động trong việc thể hiện ơn cứu độ: “Ngài (Thánh Linh chân lý) sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy từ những gì là của Thầy mà nói cho anh em biết” (Jn 16:14).
Những điều trưng dẫn ở trên trong một bản văn sau đây của Thánh Irenaeus of Lyons rất đáng chú ý. Khi bình luận về phép rửa tại Sông Jordan, thánh nhân nói: “Qua các ngôn sứ, Chúa Thánh Linh đã hứa, trong những ngày sau cùng, sẽ tuôn đổ xuống trên các tôi tớ nam nữ tràn đầy ơn thánh của Ngài để họ có thể nói tiên tri. Vì lý do đó Ngài đã ngự xuống trên Con Thiên Chúa Đấng đã trở nên con người. Chúa Thánh Linh trở nên kề cận với Chúa Giêsu và cùng hiện hữu giữa loài người, ‘ở’ giữa người nam, người nữ, và giữa những kẻ được Thiên Chúa tạo dựng, đem lại trong họ thánh ý Chúa Cha và canh tân họ, biến đổi họ từ ‘con người cũ’ trở nên ‘con người mới’ của Chúa Kitô” (Adv. Haer., III, 17,1). Văn bản của thánh Irenaeus trưng dẫn trên xác nhận từ những thế kỷ đầu Giáo hội đã ý thức việc kết hiệp giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Linh đem lại việc tạo dựng mới.
Dấu chỉ của Chúa Thánh Linh đã thể hiện qua biểu tượng chim bồ câu khi Chúa Giêsu phép rửa tại sông Jordan. Trong hình ảnh tiêu biểu phép rửa, chim bồ câu nối kết với nước. Theo một số Giáo Phụ thì hình bóng tiêu biểu đó nhắc nhớ lại việc xảy ra vào cuối đại hồng thủy, cũng được diễn giải là một thứ phép rửa Kitô Giáo. Chúng ta đọc trong Sáng Thế Ký khi ông Noe “thả con chim bồ câu ra khỏi tầu và nó bay trở lại ... mỏ nó ngậm lá ô-liu. Nhờ đó ông Noe biết nước đã rút khỏi mặt đất” (St 8:10-11). Hình ảnh chim bồ câu cho thấy sự tha thứ tội lỗi, làm hòa với Thiên Chúa và canh tân giao ước. Tất cả những sự việc thấy ở trên là những điều hoàn tất trong thời đại thiên sai, cùng với việc làm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và của Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 11 tháng Bảy, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
Thánh Linh Đưa Chúa Giêsu vào Hoang Địa
Sự kiện khác nữa thuộc về lúc khởi đầu sứ mệnh thiên sai của Chúa Giêsu cũng rất đáng chú ý và gợi cảm đối với chúng ta. Các thánh sử kể lại và coi yếu tố đó là việc làm của Chúa Thánh Linh. Sự việc này xảy ra trong hoang địa. Chúng ta đọc trong Phúc Âm thánh Marcô: “Ngay khi đó Thánh Linh đưa Ngài vào hoang địa” (Mc 1:12). Thêm nữa Thánh Matthêu (4:1) và Luca (4:1) nói Chúa Giêsu “được Thánh Linh hướng dẫn vào hoang địa.” Những lời Phúc âm này cống hiến nhiều chỉ dẫn khác nhau giúp chúng ta học hỏi thêm về mầu nhiệm “Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Linh,” từ lúc khởi đầu công cuộc cứu độ nhân loại.
Trước nhất, chúng ta cần nhận xét về ngữ học. Động từ “(được) hướng dẫn” (was led) trong Matthêu và Luca, “đưa” (drove, hướng dẫn, thúc đẩy) trong Marcô, mô tả sự khởi xướng đầy năng động về phần Chúa Thánh Linh. Sáng kiến khởi xướng đó sáp nhập trọn vẹn vào luận lý học về đời sống tinh thần và tâm lý của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận từ ông Gioan (Tẩy Giả) “phép rửa thống hối.” Vì thế Chúa Giêsu cảm thấy cần một thời gian hồi niệm và chay tịnh khổ hạnh trong việc chuẩn bị sứ mệnh thiên sai của mình, mặc dù bản thân Chúa không cần đến thống hối vì Chúa “tràn đầy ân sủng” và “toàn thánh” từ giây phút bẩm thai (tc. Lc 1:35; Jn 1:14).
Sứ mệnh của Chúa Giêsu cũng đòi Chúa sống giữa những người tội lỗi mà Chúa được phái đến để rao giảng Tin Mừng và cứu độ (tc. Summa Theol. III, q, 40, a. 1) trong cuộc chiến đấu với quyền lực ma quỉ. Vì thế mà có thời gian Chúa ở trong hoang địa “để chịu ma quỉ cám dỗ.” Chúa Giêsu đã tuân theo sự thúc đẩy nội tâm và đi tới nơi Thánh Linh muốn.
Ngoài địa điểm gặp gỡ Thiên Chúa, hoang địa cũng là đất của cám dỗ và chiến đấu tinh thần. Suốt cuộc lữ hành lâu năm trong hoang địa, dân Israel đã trải qua nhiều cám dỗ và cũng đã chịu thua nhiều phen (tc. Xh 32:1-6; Ds 14:1-4; 21:4-5; 25:1-3; Tv 78:17; 1 Cor 10:7-10). Chúa Giêsu đi vào hoang địa dường như là một cách liên kết chính Ngài với sự kiện lịch sử dân Ngài. Nhưng khác với cách thức của dân Israel, vào lúc khởi đầu hành động thiên sai của mình, Chúa Giêsu trước hết hoàn toàn tuân phục hành động của Chúa Thánh Linh. Thánh Linh đòi hỏi ở Chúa Giêsu việc chuẩn bị nội tâm dứt khoát trọn vẹn cho việc thi hành sứ mệnh, với sự trợ giúp của Ngôi Lời và cầu nguyện.
Theo tinh thần truyền thống Phúc Âm và tâm lý người Israel, con số bốn mươi có thể dễ dàng liên quan đến các biến cố xa xưa khác, đầy ý nghĩa đối với lịch sử cứu độ: bốn mươi ngày đại hồng thủy (tc. St 7:4, 17); bốn mươi ngày ông Moses ở trên núi (tc. Xh 24:18); và ngôn sứ Elijah đi đường bốn mươi ngày trong đó ngài được bổ dưỡng bằng bánh phép lạ ban cho ngài sinh lực mới (tc. 1 Vua 19:8). Theo các thánh sử, do Chúa Thánh Linh thúc đẩy, Chúa Giêsu đã ứng dụng cả việc ở trong hoang địa, truyền thống và con số thánh (tc. Mt 4:1; Lc 4:1). Chúa cũng đã hiện ra với các tông đồ như thế trong thời gian sau khi phục sinh và lên trời (tc. Cv 1:3).
Vì thế Chúa Giêsu được hướng dẫn vào hoang địa để đương đầu với những cám dỗ của Satan và có thể tự do hơn gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Tới đây chúng ta cũng cần nhớ trong các Sách Phúc Âm hoang địa được nhiều lần nói tới là chỗ ở của Satan. Chúng ta chỉ cần nhắc lại đoạn trong Phúc Âm theo Thánh Luca về “thần ô uế” “khi nó ra khỏi người nào đó, nó đi lang thang khắp những miền khô cằn tìm chỗ nghỉ ...” (Lc 11:24); và đoạn khác về tên Gerasene bị quỉ ám đã bị “ma quỉ đưa vào hoang địa” (Lc 8:29).
Trong những vấn đề Chúa Giêsu bị cám dỗ, sự thúc đẩy đi vào hoang địa phát xuất từ Chúa Thánh Linh và có ý nghĩa quan trọng hơn hết là khởi đầu một sự khải hiển (chúng ta có thể nói về một sự cảnh giác mới) về cuộc chiến đấu Chúa sẽ tiến hành dẫn tới kết cuộc cay đắng chống lại Satan, kẻ chủ mưu tội lỗi. Từ việc chiến thắng các cám dỗ, Chúa cho thấy sức mạnh cứu độ vượt trên tội lỗi và báo trước nước Thiên Chúa sắp đến, như một ngày kia Chúa nói: “Nếu Tôi dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì nước Thiên Chúa đã đến trên các người” (Mt 12:28). Thánh Linh được mạc khải ở hai phương diện: nơi uy lực Chúa Kitô chiến thắng sự dữ và Satan, và trong việc nước Thiên Chúa đến qua các hành động của Chúa Kitô.
Chúng ta cần phải chú ý đến việc Chúa Giêsu đã trải qua và chiến thắng những cám dỗ trong hoang địa mà một trong những cám dỗ đó cho thấy Satan chống lại việc nước Thiên Chúa đến trong thế giới loài người. Các thánh sử mô tả trực tiếp hoặc gián tiếp việc đối kháng này. Và những lời Chúa Giêsu đáp lại kẻ cám dỗ vạch trần những ý định căn cố sâu xa của “cha sự dối trá” (Jn 8:44) mà nó cố gắng bằng hình thức quắt quéo dùng những lời Sách Thánh để đạt mục tiêu của nó. Nhưng Chúa Giêsu đã bài bác nó dựa trên căn bản cũng những lời đó của Thiên Chúa, được áp dụng cách chính đáng.
Lời các thánh sử tường thuật có thể theo cách nào đó vang lên và tạo ra một sự song hành giữa những cám dỗ tương tự của dân Israel suốt cuộc lữ hành bốn mươi năm trong sa mạc (tìm lương thực: tc. Đnl 8:3; Xh 16; lý do không thành thật xin ơn thần linh bảo vệ cho lòng tự mãn: tc. Đnl 6:13; Xh 32:1-6) và nhiều giai đoạn khác suốt đời ông Moses. Trở lại vấn đề Chúa Giêsu bị cám dỗ, chúng ta có thể nói những tình tiết trong bối cảnh cuộc đời Chúa Giêsu nhất là theo khía cạnh lịch sử và thần học. Mặc dầu không vướng mắc tội lỗi, Chúa Giêsu đã trải qua những cám dỗ bên ngoài của ma quỉ (tc. Mt 16:23). Rõ ràng là Ngài đã chịu cám dỗ để trở nên Adam mới, thủ lãnh của chúng ta, Đấng Cứu Độ đầy lòng thương xót của chúng ta (tc. Mt 26:36-46; Dt 2:10, 17-18; 4:15; 5:2, 7-9).
Căn rễ của mọi cám dỗ là viễn tượng về một chức thiên sai vinh quang có tính cách chính trị, mà hình ảnh đó phổ thông và đã thấm sâu vào tâm trí người Israel. Ma quỉ tìm cách làm cho Chúa Giêsu chấp nhận quan điểm giả dối này, vì ma quỉ là kẻ thù của chương trình Thiên Chúa, kẻ hận thù lề luật Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Ngài. Vì thế ma quỉ là kẻ thù của Chúa Kitô, như được ghi chép trong Phúc Âm và các tác phẩm Tân Ước khác (tc. Mt 13:39; Jn 8:44; 13:2, Cv 10:38; Eph 6:11; 1 Jn 3:8, v.v.). Nếu Chúa Kitô cũng vấp ngã thì Satan sẽ khoác lác rằng nó là kẻ cầm đầu thế giới (tc. Lc 4:5-6) và sẽ giành được chiến thắng sau cùng trong lịch sử. Vì thế công cuộc đấu tranh trong hoang địa có tính cách quyết định.
Chúa Giêsu biết Ngài được Chúa Cha phái đến để thiết lập vương quốc Thiên Chúa trong thế giới nhân loại. Vì mục đích này, Chúa Giêsu đã chấp nhận để bị cám dỗ ngõ hầu có vị thế thích đáng giữa những kẻ tội lỗi. Chúa đã thực hiện việc này tại sông Jordan để làm gương cho mọi người (tc. St. Augustine, De Trinitae 4:13). Nhưng về phương diện khác, nhờ Chúa Thánh Linh xức dầu, Chúa Giêsu đã tới tận gốc rễ của tội lỗi và đánh bại kẻ là “cha sự dối trá” (Jn 8:44). Như thế, theo Chúa Thánh Linh thúc đẩy, Chúa Giêsu sẵn sàng đương đầu với mọi cám dỗ vào lúc khởi đầu sứ vụ của Ngài (tc. St. Augustine, De Trinitae 13:13).
Rồi một ngày khi đã hoàn tất sứ mệnh của Ngài, Chúa Giêsu tuyên bố: “Bây giờ là thời điểm phán xét thế gian; vì lúc này tên thủ lãnh thế gian bị xua đuổi” (Jn 12:31). Trước ngày chịu khổ hình cứu chuộc, Chúa Giêsu nhắc lại điều này: “Thủ lãnh thế gian đang tới; nhưng nó không làm gì được Thầy” (Jn 14:30); trái lại, “tên thủ lãnh thế gian này đã bị luận phạt rồi” (Jn 16:33). Cuộc chiến đấu chống lại “cha sự dối trá” kẻ là “thủ lãnh thế gian,” bắt đầu trong hoang địa, sẽ lên tới tột đỉnh trên đồi Golgotha. Chiến thắng xảy ra nhờ thánh giá của Chúa Cứu Thế.
Bởi thế chúng ta nhận biết đầy đủ giá trị miền hoang địa là nơi dành cho việc gặp gỡ đặc biệt với Thiên Chúa, như đã xảy ra với ông Moses (tc. Xh 24:18), với ngôn sứ Elijah (tc. I Vua 19:8) và hơn hết là với Chúa Giêsu. Theo Chúa Thánh Linh hướng dẫn, Chúa Giêsu đã vui lòng trải qua cũng kinh nghiệm đó để gặp gỡ Chúa Cha (tc. Hos. 2:16), để đối đầu với những thế lực chống lại Thiên Chúa. Sự việc mà Chúa Giêsu đã trải qua là gương sáng, và là bài học cho chúng ta về sự thống hối ăn năn, không phải cho Chúa Giêsu, Đấng vô tội, nhưng cho tất cả chúng ta. Một ngày kia, chính Chúa Giêsu đã khuyên răn các môn đệ về cần phải cầu nguyện và chay tịnh ngõ hầu xua đuổi “thần ô uế” (tc. Mc 9:29). Trong lúc phiền sầu cô đơn cầu nguyện trong vườn Gethsemane, Chúa Giêsu đã khuyên các tông đồ hiện diện: “Anh em hãy cảnh giác và cầu nguyện để khỏi sa ngã vào cám dỗ; tinh thần thì mạnh mẽ (sẵn sàng), nhưng thể xác thì yếu đuối” (Mc 14:38). Theo gương Chúa Kitô vinh thắng trong hoang địa, chúng ta khám phá ra rằng chúng ta cũng có Đấng Thần Linh An Ủi, Chúa Thánh Linh, Đấng Bào Chữa. Chúa Giêsu Kitô đã hứa Chúa Thánh Linh sẽ “lấy những gì là của Thầy” mà ban cho anh em (tc. Jn 16:14). Tóm lại, Chúa Thánh Linh sẽ lấy phần nào chiến thắng của Chúa Kitô đối với tội lỗi và Satan, kẻ thứ nhất tạo ra tội lỗi, mà kết hợp với chiến thắng của bất cứ người nào bị cám dỗ; Thánh Linh đã dẫn Đấng Thiên Sai đi vào hoang địa không những để “bị cám dỗ,” mà cũng để Ngài có thể ban bằng cớ khởi đầu cho sức mạnh chiến thắng ma quỉ và sự thống trị của nó.
Buổi gặp chung ngày 21 tháng Bảy, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Thánh Linh Cầu Nguyện Là Nguồn Lực Cuộc Đời Hoạt Động của Chúa Giêsu
Sau bốn mươi ngày chay tịnh và chiến thắng cám dỗ trong hoang địa, Chúa Giêsu khởi đầu hoạt động thiên sai giữa quần chúng. Thánh Luca viết “Rất nhiều đám đông đến nghe lời Ngài và được chữa lành bệnh tật” (Lc 5:15). Hoạt động của Chúa Cứu Thế bao gồm việc Ngài đi từ thị trấn (làng) này đến thị trấn khác rao giảng Tin Mừng và giảng dạy về nước Thiên Chúa, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ, chữa lành người bệnh tật, và giảng dạy tại các hội đường (tc. Lc 4:43-44). Hoạt động của Chúa cam go vất vả, kèm theo “những dấu lạ và phép lạ” (tc. Cv 2:22). Toàn thể những dấu lạ và phép lạ này tuôn ra từ việc xức dầu trong Chúa Thánh Linh mà thánh sử nói tới từ lúc khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Linh luôn luôn hiện diện vì Ngài là sự sung mãn ân sủng, mặc dầu chỉ được nói đến trong một vài trường hợp.
Vì Chúa Giêsu phải rao giảng Tin Mừng cho dân chúng để chuẩn bị họ đón nhận ơn cứu chuộc, Ngài đã được phái đến sống với họ, mà không phải là nơi hoang địa hoặc chốn hẻo lánh nào khác. Chỗ ở của Ngài là giữa quần chúng, như Emigius of Auxerre (+908) ghi nhận, và Thánh Thomas trích dẫn. Nhưng chính Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần nhận xét: “Việc Chúa Kitô trở lại cuộc sống bình thường sau khi chay tịnh trong hoang địa đã không xảy ra nếu không vì sứ mệnh thiên sai. Môi trường đó thích hợp cho việc nhập thế của một người truyền thông cho người khác những kết quả cuộc chiêm niệm của mình, một sự cam kết dấn thân mà Chúa Kitô đã nhận lãnh: có nghĩa, trước hết là sự quyết tâm dâng hiến chính mình để cầu nguyện, và kế đến là xuất hiện hoạt động nơi công chúng bằng việc sống với họ” (Summa Theol., III, q, a. 2. ad 2).
Mặc dầu hòa mình giữa quần chúng, Chúa Giêsu vẫn luôn luôn miệt mài cầu nguyện. Thánh Luca cho biết Chúa “lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện” (Lc 5:16). Chúa Giêsu sống trong hoàn cảnh luôn luôn đối thoại với Cha Ngài và chuyển đổi những lời đối thoại đó thành những hành động tôn giáo tuyệt vời. Các thánh sử tô đậm một vài biến cố này, như lời cầu nguyện trước khi hiển lộ vinh quang trên núi Tabor (tc. Lc 9:29) và trong cơn phiền sầu u uất ở vườn Gethsemane. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu thắm thiết tình phụ tử và hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Thánh Linh đạt tới cách diễn tả tuyệt vời bằng những lời: “Abba, Cha ơi! Cha có thể làm mọi sự, xin cất chén đắng này khỏi Con! Nhưng không phải theo ý Con mà xin theo ý Cha” (Mc 14:36).
Có một trường hợp thánh sử quy dẫn lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho Chúa Thánh Linh. Điều này cho thấy tình trạng thường xuyên chiêm niệm phát ra lời cầu nguyện. Việc Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trong Chúa Thánh Linh xảy ra trên đường đi Jerusalem trước khi Ngài nói với các môn đệ và chọn ra nhóm bảy mươi hai (người). Sau khi cẩn thận chỉ dạy các ông, Ngài phái các ông đi rao giảng tin mừng cho dân chúng tại những nơi Ngài sắp đến (tc. Lc 10:1). Trở về sau khi hoàn tất sứ mệnh, bảy mươi hai môn đệ hân hoan tường trình với Chúa Giêsu những việc các ông đã làm, gồm cả việc nhân danh Ngài mà trừ ma quỉ (tc. Lc 10:17). Sau khi nói cho các ông biết Ngài đã thấy “Satan như lửa từ trời rớt xuống” (Lc 10:18), Chúa Giêsu hân hoan trong Chúa Thánh Linh và nói: “Con tạ ơn Cha, lạy Cha là Chúa trời đất, Cha đã giấu những điều này đối với những người khôn ngoan thông thái mà tiết lộ (những điều này) cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, đó là thánh ý nhân từ của Cha” (Lc 10:21).
Trong Tông Huấn Dominum et vivificantem, cha đã ghi nhận: “Chúa Giêsu mừng rỡ thâm tình phụ tử của Thiên Chúa: Chúa Giêsu reo mừng vì Thiên Chúa đã ban cho Ngài sự hân hoan đó để mạc khải quan hệ cha con; sau cùng Chúa Giêsu hoan hỉ vì quan hệ cha con thần linh này được ban dồi dào cho ‘những kẻ bé mọn.’” Và thánh sử mô tả tất cả những điều này là ‘reo vui trong Chúa Thánh Linh ...’ Chúng ta có thể nói sự vui mừng vào dịp thần hiển tại sông Jordan xảy ra ‘từ bên ngoài,’ từ trời cao, còn ở đây xảy ra ‘từ bên trong,’ tức là từ nội tâm của Đấng là Chúa Giêsu. Lời reo vui này của Chúa Giêsu là một mạc khải khác nữa về Chúa Cha và Chúa Con, kết hiệp với Chúa Thánh Linh. Chúa Giêsu chỉ nói về liên hệ phụ tử của Thiên Chúa và Quyền-Tử-Tức của chính Ngài – Chúa Giêsu không nói trực tiếp về Chúa Thánh Linh Đấng là Tình Yêu kết hiệp Chúa Cha và Chúa Con. Vả lại, những điều Chúa Giêsu nói về Chúa Cha và chính Ngài, Chúa Con, phát xuất từ sự sung mãn Thánh Linh (Đấng) ở trong Chúa Giêsu, đầy ắp trái tim Ngài, tỏa khắp “Cá Thể (Cái Tôi)” của Ngài, khởi hướng và sinh động các hành động của Ngài từ trong tâm khảm. Như thế đó là sự hân hoan ‘vui mừng trong Chúa Thánh Linh’” (DViv. các số 20-21).
Đoạn Phúc Âm Thánh Luca 10:21, thêm vào với đoạn của Thánh Gioan nói về những lời từ biệt tại căn phòng trên lầu (tc. Jn 13:31; 14:31), có ý nghĩa đặc biệt về mạc khải Chúa Thánh Linh trong sứ mệnh thiên sai của Chúa Kitô.
Tại hội đường ở Nazareth, Chúa Giêsu đã áp dụng cho chính Ngài lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah: “Thần Linh Chúa ở trên tôi” (Lc 4:18). Việc Thánh Linh “ở trên Ngài” trải rộng khắp các “việc Ngài làm” và “lời Ngài giảng dạy” (Cv 1:1). Thánh Luca chép: “Chúa Giêsu (từ hoang địa) trở về Galilee trong quyền năng của Thánh Linh, và tin tức về Ngài lan tràn khắp miền đó. Chúa giảng dạy tại các hội đường của họ và mọi người ca tụng Ngài” (Lc 4:14-15); “Tất cả mọi người đều ca tụng Ngài và ngạc nhiên về những lời tốt lành từ miệng Ngài nói ra” (Lc 4:22). Cũng những lời ca tụng đó nói về các phép lạ và sức hấp dẫn vô song của tự thân Ngài. Mọi người “đã từ khắp nơi tuốn đến để nghe lời Ngài và được chữa lành mọi tật bệnh ... tìm cách chạm vào Ngài, vì sức mạnh từ Ngài phát ra chữa lành tất cả” (Lc 6:17-19). Làm cách nào chúng ta lại không nhìn nhận đây cũng là một hiển lộ sức mạnh của Chúa Thánh Linh, được ban tràn đầy cho Chúa Giêsu với tư cách là một con người, để tăng quyền lực cho lời nói và việc làm của Chúa Giêsu?
Chúa Giêsu dạy cần vững tin khi cầu nguyện xin Chúa Cha ban Thánh Linh thì xin điều gì, điều đó sẽ được ban cho: “Nếu anh chị em ... biết cho con cái anh chị em những thứ tốt lành, thì lẽ nào Cha trên trời của anh chị em lại không ban Thánh Linh gấp muôn vàn lần cho những ai kêu xin Ngài”(Lc 11:13). Khi giảng dạy các môn đệ về những bách hại sẽ đến, cùng với tù đày và tra vấn, Chúa nói thêm: “Trước hết, anh chị em đừng sợ anh chị em phải nói gì. Mà hãy nói những điều sẽ được ban cho anh chị em vào lúc đó. Vì không phải anh chị em nói mà chính Chúa Thánh Linh nói” (Mc 13:11). “Chúa Thánh Linh sẽ dạy anh chị em phải nói gì vào lúc đó” (Lc 12:12).
Trong những điều Chúa Giêsu chỉ dạy các môn đệ, các Sách Phúc Âm Nhất Lãm kể lại một giáo huấn rất ý nghĩa khác nữa. Giáo huấn đặc biệt đó về “tội lộng ngôn xúc phạm Chúa Thánh Linh.” Chúa Giêsu nói: “Bất cứ người nào nói lời xúc phạm Con Người sẽ được tha thứ, nhưng người nào lộng ngôn xúc phạm Chúa Thánh Linh sẽ không được tha thứ” (Lc 12:10; tc. Mt 12:32; Mc 3:29). Chỉ sau khi đọc giáo huấn này (Lc 12:10) dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Linh, chúng ta mới nhận ra giáo huấn này đề cập vấn đề thần học và đạo đức nghiêm trọng bao la hơn chúng ta thoạt nghĩ. “‘Lời lộng ngôn xúc phạm’ không chỉ gồm việc xúc phạm Chúa Thánh Linh bằng lời nói; hơn nữa ‘lời lộng ngôn’ gồm có việc khước từ không chấp nhận ơn cứu chuộc Thiên Chúa ban cho nhân loại qua Chúa Thánh Linh, thể hiện nhờ quyền lực thập giá ... Chúa Giêsu nói rằng lộng ngôn xúc phạm Chúa Thánh Linh không thể được tha thứ ở đời này và đời sau, chính vì ‘tính cách không thể tha thứ này’ nối kết với nguyên do của nó là ‘không thống hối ăn năn,’ nói cách khác, là nối kết với căn nguyên việc từ chối cải đổi ... Như thế, lời lộng ngôn chống lại Chúa Thánh Linh là tội phạm bởi con người tuyên xưng có ‘quyền’ chai lì trong sự dữ (tội) ... trong bất cứ sự dữ nào ... và như thế người đó khuớc từ ơn cứu chuộc. Người đó tự giam mình trong tội, như thế không thể nào làm cho người đó cải đổi, mà kết quả của việc cải đổi là ơn tha thứ mọi lỗi lầm” (DViv 46). Kiêu ngạo phạm thượng thực sự đối nghịch với lòng khiêm tốn vâng phục và hiệp thông với Chúa Cha; Mà hiệp thông với Chúa Cha là phương cách Chúa Giêsu hoạt động, cầu nguyện, giảng dạy và khuyến cáo mọi người nhận phương cách đó làm thái độ nội tâm và nguyên tắc hành động của họ.
Toàn thể việc giảng dạy và hành động của Chúa Giêsu Kitô đều phát xuất từ việc Ngài kết hiệp với Chúa Thánh Linh. Việc kết hiệp Chúa Giêsu và Chúa Thánh Linh bao gồm sự phong phú bao la của trái tim: “Anh chị em hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và anh chị em sẽ tìm được an nghỉ cho linh hồn” (Mt 11:29). Nhưng đồng thời hiện hữu toàn thể sức mạnh chân lý về nước Thiên Chúa và lời mời gọi chúng ta liên tục rộng mở tâm hồn lãnh nhận Chúa Thánh Linh soi dẫn để được nhận vào nước Thiên Chúa mà không bị loại ra ngoài.
Tất cả mọi điều này cho biết uy lực của Chúa Thánh Linh và chính Chúa Thánh Linh hiện diện và hành động với tư cách là Đấng Phù Trợ, Đấng an ủi nhân loại, Đấng xác nhận các chân lý thần linh, và là Đấng loại trừ “thủ lãnh thế gian.”
Buổi gặp chung ngày 25 tháng Bảy, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cầncó.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
46. Công Trình của Chúa Thánh Linh trên đồi Calvary
Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem (số 40) cha đã viết: “Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, với tư cách thế nhân, trong lời cầu nguyện nồng nàn trước khi chịu khổ hình cứu chuộc, đã làm cho Chúa Thánh Linh Đấng thấu tận sâu thẳm nhân tính của Ngài, biến đổi nhân tính Ngài thành hy lễ toàn vẹn qua khổ nạn với tư cách nạn nhân của tình yêu trên thập giá. Với tư cách vị tư tế duy nhất, ‘Chúa dâng hiến chính mình không tì vết lên Thiên Chúa’ (Dt 9:14)”. Qua các Sách Phúc Âm, chúng ta học biết chân lý về Chúa Thánh Linh từ giây phút khởi đầu việc Ngôi Lời nhập thể và hy lễ thánh giá là tột đỉnh cuộc đời Chúa Cứu Thế. Chân lý đặc biệt rõ ràng về Chúa Thánh Linh đã được dùng làm đề tài cho những bài giáo lý trước tập trung vào những giai đoạn trong cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Chủ đề bài giáo lý hôm nay nói về biến cố thập giá.
Chúng ta tập trung vào những lời cuối cùng Chúa Giêsu nói trong cơn hấp hối trên đồi Calvary. Trong Phúc Âm Thánh Luca ghi: “Lạy Cha, Con phó thác linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23:40). Mặc dầu mọi ngôn từ, ngoại trừ “Lạy Cha” đều từ Thánh vịnh 31, những lời đó mang ý nghĩa khác trong bối cảnh Phúc Âm (Tân Ước). Thánh vịnh gia cầu xin Thiên Chúa cứu ông khỏi chết. Trái lại, dùng chính những lời của thánh vịnh gia, Chúa Giêsu trên thánh giá chấp nhận cái chết, trao phó thần khí của mình, tức là “mạng sống của Ngài,” cho Chúa Cha. Thánh vịnh gia kêu cầu Thiên Chúa như kêu cầu một người giải phóng; Chúa Giêsu dâng hiến, tức là trao phó thần khí cho Chúa Cha với cái nhìn hướng vào phục sinh. Chúa Giêsu trao phó trọn vẹn nhân tính của Ngài cho Chúa Cha. Tuy nhiên, từ ngữ “Con” thần linh của Chúa Con kết hiệp với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh hiện hữu trong nhân tính của Ngài. Mặc dầu sự hiện diện của Chúa Thánh Linh không được minh họa trong Phúc Âm Thánh Luca như trong Thư gửi tín hữu Do Thái (tc. Dt 9:14).
Trước khi chuyển sang văn bản khác, chúng ta cần duyệt cách trình bày hơi khác về những lời Chúa Giêsu đang hấp hối ghi trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Khi Chúa Giêsu đã nhấm chút rượu, Ngài nói, ‘mọi sự đã hoàn tất!” Và gục đầu xuống Ngài trao phó thần khí (trút linh hồn)” (Jn 19:30). Thánh sử Gioan không nhấn mạnh việc “trao phó” thần khí (linh hồn) cho Chúa Cha. Toàn thể văn cảnh của Phúc Âm Thánh Gioan và đặc biệt là những trang dành riêng nói về cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá dường như chỉ nhấn mạnh về cái chết đánh dấu lúc khởi đầu việc gởi Chúa Thánh Linh đến, như là món quà được trao ban vào lúc Chúa Kitô ra đi.
Lại nữa, ở đây cũng không một lời minh xác nào được đưa ra. Nhưng chúng ta không thể không kể đến sự nối kết đáng ngạc nhiên dường như tồn tại giữa lời Thánh Gioan tường thuật cuộc tử nạn của Chúa Kitô và điều được tìm thấy trong Thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Do Thái. Tác giả Thư gửi giáo đoàn Do Thái nói về chức năng có tính cách nghi lễ của lễ vật đẫm máu thuộc Cựu Ước được dùng thanh tẩy dân chúng khỏi tội lỗi. Ngài so sánh các lễ phẩm đó với hy lễ trên thánh giá, rồi kết thúc bằng lời tuyên xưng: “Máu Chúa Kitô còn hữu hiệu hơn biết chừng nào, nhờ Thánh Linh hằng tác động, Chúa Kitô đã tự hiến tế như lễ phẩm toàn vẹn lên Thiên Chúa, thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết để chúng ta thờ phượng Thiên Chúa hằng hữu” (Dt 9:14).
Như cha đã viết trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem: “Trong nhân tính của Ngài, Chúa Kitô xứng đáng trở nên lễ phẩm này, vì chỉ một mình Ngài là “toàn vẹn vô tì vết.” Chúa Giêsu đã hiến dâng nhân tính của Ngài ‘nhờ Thánh Linh hằng hữu,’ tức là Chúa Thánh Linh đã hành động cách đặc biệt trong việc tự hy sinh tuyệt đối này của Con Người, ngõ hầu biến đổi khổ hình thập giá trở thành tình yêu cứu độ” (số 40). Mầu nhiệm của việc hợp tác giữa Đấng Thiên Sai và Chúa Thánh Linh trong hành động cứu độ theo lời tường thuật của thánh sử Luca về mầu nhiệm Truyền Tin cho Đức Maria, ở đây trở thành đoạn trong Thư gửi giáo đoàn Do Thái. Đoạn thư này minh họa căn cốt của việc hiệp tác giữa Chúa Cứu Thế và Chúa Thánh Linh thấm vào lương tâm nhân loại để thanh tẩy và canh tân (lương tâm nhân loại) nhờ ân sủng thần linh, một sự kiện khác xa với ngoại diện của những hiến dâng có tính cánh nghi lễ.
Cựu Ước nhiều lần nói về “lửa từ trời” thiêu hóa những lễ vật dâng hiến (tc. Lev 9:24: 1 Vua 18:38, 2 Sbn 7:1). “Lửa trên bàn thờ phải được giữ luôn cháy, không được để tắt. Mỗi sáng vị tư tế chất củi vào lửa sẵn trên bàn thờ. Ngài đặt trên lớp củi lửa và của lễ toàn thiêu và đốt cháy mỡ béo của lễ phẩm cầu an” (Lev 6:5). Bây giờ chúng ta biết những lễ phẩm toàn thiêu thời xưa đã là hình bóng tiêu biểu hy lễ thánh giá, một hy lễ toàn thiêu trọn hảo. “Do tính cách tương tự đó chúng ta có thể nói Chúa Thánh Linh là ‘lửa từ trời’ hoạt động nơi thẳm sâu mầu nhiệm Thánh Giá. Từ Chúa Cha mà ra, Chúa Thánh Linh hướng hy lễ của Chúa Con lên Chúa Cha, đem hy lễ đó vào thực tế thần linh của việc hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi” (DViv 41).
Vì thế, phản ánh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy lời ông Gioan Tẩy Giả loan báo tại sông Jordan: “Ngài (Chúa Kitô) sẽ rửa bằng Chúa Thánh Linh và lửa” (Mt 3:11) đã hoàn thành trọn vẹn. Theo Cựu Ước, lửa tiêu biểu việc can thiệp toàn năng của Thiên Chúa trong hành động thanh tẩy lương tâm nhờ Chúa Thánh Linh (tc. Is 1:25, Zec 13:9; Mal 3:2-3; Sir 2:5). Lúc này lửa đó (lửa thiêu hóa lễ vật và tiêu biểu việc thanh tẩy lương tâm) chuyển sang hy lễ thánh giá là “Phép Rửa” toàn hảo “mà chính Chúa Kitô đã phải được rửa” (tc. Mc 10:38). Suốt cuộc đời và sứ mệnh trần thế của Ngài, Chúa Kitô đã dốc toàn tâm lực hướng về Phép Rửa này, như chính lời Chúa nói: “Thầy đến để châm ngọn lửa nơi trần gian. Thầy khao khát chừng nào cho lửa ấy cháy lên! Thầy có một phép rửa phải chịu. Thầy khắc khoải cho tới khi việc đó hoàn tất!” (Lc 12:49-50). Chúa Thánh Linh là “lửa” cứu độ đem lại hy lễ thánh giá.
Trong Thư gửi tín hữu Do Thái, Thánh Phaolô nói: “Chúa Kitô, dẫu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học biết vâng phục qua những đau khổ Ngài phải chịu” (5:8). Và khi đến trần gian Chúa Kitô đã nói với Chúa Cha: “Này Con đến để thi hành thánh ý Cha” (Dt 10:9). Đức phục tòng được thể hiện trọn vẹn trong hy lễ thánh giá: “Nếu tội lỗi là nguyên nhân đau khổ, thì lúc này, nhờ Chúa Thánh Linh, sự đau đớn Thiên Chúa chịu trong Chúa Kitô bị đóng đanh thập giá tác thành đầy đủ theo cách diễn đạt của con người về sự đau khổ ... Nhưng đồng thời, từ sâu thẳm của thống khổ này ... Thánh Linh rút ra mức độ mới về ân sủng ban cho nhân loại và tạo vật từ nguyên thủy. Tình yêu, hoạt động nơi thẳm sâu mầu nhiệm Thánh Giá, đưa nhân loại trở lại chia sẻ sự sống ở nơi chính Thiên Chúa” (DViv 41).
Như thế trong những mối liên hệ giữa nhân loại với Thiên Chúa “chúng ta có một vị thượng tế vĩ đại là Đấng có thể thông cảm với những yếu đuối của chúng ta vì Ngài đã bị thử thách đủ mọi cách, nhưng không vương tội” (Dt 4:15). Trong mầu nhiệm mới này về việc trung gian tư tế của Chúa Kitô trước mặt Chúa Cha, có sự can thiệp với tính cách quyết định của Thánh Linh hằng hữu, Đấng là lửa yêu thương vĩnh cửu.
“Theo một ý nghĩa, Chúa Thánh Linh là tình yêu và ân sủng ngự xuống chính tâm cốt hy lễ được dâng hiến trên thánh giá. Theo truyền thống Phúc Âm, chúng ta có thể nói: Chúa Thánh Linh thăng hoa hy lễ này bằng lửa yêu thương mà tình yêu này kết hiệp Chúa Con với Chúa Cha trong hiệp thông Chúa Ba Ngôi. Và vì hy lễ thánh giá là một hành động tuyệt đối của Chúa Kitô, cũng vậy trong hy lễ này Chúa Kitô ‘nhận được’ Chúa Thánh Linh cách tuyệt đối. Chúa Kitô nhận Chúa Thánh Linh theo cách mà Ngài - và chỉ một mình Ngài cùng với Chúa Cha - có thể ban “Thánh Linh cho các tông đồ, cho Giáo Hội, cho nhân loại” (DViv 41).
Vì thế điều chính đáng phải nhìn nhận hy lễ thánh giá là giai đoạn kết thúc mạc khải về Chúa Thánh Linh trong cuộc đời Chúa Kitô. Biến cố Lễ Hiện Xuống và toàn thể hiệu lực sẽ từ ngày đó tuôn tràn khắp thế giới đều phát xuất từ giây phút then chốt này. Cũng một “Thánh Linh hằng hữu” hoạt động trong mầu nhiệm Thánh Giá xuất hiện trong căn phòng trên lầu (phòng Tiệc Ly) dưới hình thức “lưỡi lửa” trên đầu các tông đồ. Điều này có nghĩa Chúa Thánh Linh dần dần thấm vào huyết mạch lịch sử nhân loại qua việc rao giảng của Giáo Hội. Chúng ta cũng được kêu gọi đi vào bầu trời hoạt động của sức mạnh cứu độ huyền nhiệm này khởi đầu từ thánh giá và căn phòng trên lầu ngõ hầu, trong mầu nhiệm cứu độ và qua đó, chúng ta được dẫn vào hiệp thông của Chúa Ba Ngôi.
Buổi gặp chung ngày 1 tháng Tám, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Thân Xác Phục Sinh
Trong Thư I của ngài, Thánh Phêrô viết: “(Vì) Chúa Kitô chịu đau khổ vì tội lỗi chỉ một lần, Đấng Công Chính chịu đau khổ vì kẻ không công chính, hầu dẫn anh chị em đến với Thiên Chúa. Thân xác Ngài đã chết, nhưng Ngài đã phục sinh nhờ Thánh Linh” (1 Pet 3:18). Thánh Tông Đồ Phaolô cũng nói cùng một chân lý đó trong phần mở đầu Thư gửi tín hữu Roma, ngài tự giới thiệu là tiếng kêu của Tin Mừng Thiên Chúa. Ngài tiếp thêm: “Tin Mừng nói về Con Thiên Chúa, mặc xác phàm xuất thân từ dòng dõi David, nhưng nhờ Thánh Linh và qua việc phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền uy” (Rom 1:3-4). Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem, cha đã viết về sự kiện này: “Cũng nói được rằng ‘việc sống lại’ có tính cách thiên sai của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Linh đạt tới tột đỉnh trong việc phục sinh, nơi đó Chúa Giêsu cho thấy chính Ngài là Con Thiên Chúa, ‘đầy quyền uy’” (số 24).
Các học giả cho rằng đoạn trích dẫn thượng của Thư gửi các tín hữu Roma, cũng như đoạn trích Thư I của Thánh Phêrô (1 Phêrô 3:18, 4:6), gồm có lời tuyên xưng đức tin từ thời sơ khai mà hai vị tông đồ đã tìm thấy trong nguồn sinh động của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi. Trong những yếu tố tuyên tín trên đây có lời tuyên xưng: Chúa Thánh Linh hoạt động trong việc phục sinh là “Thần Khí sự thánh thiện.” Bởi thế chúng ta có thể nói từ giây phút bẩm thai trong lòng Đức Maria do quyền năng Chúa Thánh Linh, Chúa Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, “được đặt” làm nguồn mạch sự sống và sự thánh thiện trong việc phục sinh, “đầy tràn sức mạnh thánh hóa,” do cũng quyền năng của cùng một Chúa Thánh Linh.
Như thế ý nghĩa đầy đủ của hành động mà Chúa Giêsu đã thi hành trong đêm phục sinh, “ngày thứ nhất sau ngày sabbath,” đã được giải thích rõ ràng. Khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu phục sinh cho các ông coi tay và cạnh sườn Ngài, hà hơi vào các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh” (Jn 20:22).
Thư I của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu tại Corinth lưu ý đến điểm này một cách đặc biệt. Trước kia, chúng ta đã thấy trong các bài giáo lý về Kitô học, thư này bao gồm dữ kiện lịch sử đầu tiên về những người đã chứng kiến việc Chúa Kitô phục sinh. Theo quan điểm của Thánh Tông Đồ, dữ kiện này thuộc về truyền thống Giáo Hội: “(Vì) trước tiên tôi truyền lại cho anh chị em điều quan trọng nhất mà tôi đã nhận được: ‘là Chúa Kitô đã chết vì tội chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh; Ngài đã được mai táng; ngày thứ ba Ngài đã phục sinh đúng theo lời Kinh Thánh; Ngài đã hiện ra với ông Cephas, rồi với Nhóm Mười Hai” (1 Cor 15:3-5). Kế đó Thánh Phaolô kể lại rằng Chúa Kitô hiện ra nhiều lần khác nhau sau khi phục sinh, sau cùng nói về lần Chúa Kitô hiện ra với chính ngài (tc. 1 Cor 15:4-11).
Văn bản dẫn thượng vô cùng quan trọng không phải vì chỉ ghi lại niềm tin của các Kitô hữu đầu tiên vào việc Chúa Giêsu phục sinh, nhưng cũng chép lại việc rao giảng của các tông đồ, việc phát triển truyền thống, cùng nội dung Thánh Linh học và thế mạt học của đức tin thuộc Giáo Hội sơ khai.
Trong thư Thánh Phaolô, ngài liên kết việc Chúa Kitô phục sinh với đức tin vào sự sống lại của thân xác phổ quát, và thiết lập mối tương quan giữa Chúa Kitô và ông Adong bằng những lời sau đây: “Con người thứ nhất, ông Adong, trở nên một nhân sinh, còn Adong cuối cùng là linh khí ban sự sống” (1 Cor 15:45). Khi viết về Adong trở nên “sinh khí,” Thánh Phaolô viện dẫn lời Sáng Thế Ký, theo đó ông Adong trở nên một “sinh vật” nhờ “hơi thở sự sống” mà Thiên Chúa “hà vào mũi ông” (St 2:7). Kế đến Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu Kitô siêu vượt ông Adong vì Ngài là Đấng đã phục sinh. Đấng Kitô thừa hưởng trọn vẹn Chúa Thánh Linh, mà trong một thế cách nào đó ban cho nhân loại sự sống để làm cho họ trở thành con người tinh thần (spiritual being). Nếu Adong mới trở nên “một linh khí ban sự sống,” thì điều đó không có nghĩa là bản thân Ngài đồng hóa với Chúa Thánh Linh Đấng “ban sự sống (thần linh).” Trái lại điều đó có nghĩa: với tư cách là con người, Chúa Kitô thừa kế sự sung mãn Thánh Linh, Ngài ban Thánh Linh cho các tông đồ, cho Giáo Hội và cho toàn thể nhân loại. “Chúa Thánh Linh ban sự sống” qua cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, hoặc là qua hy lễ hiến dâng trên thánh giá.
Thư gửi tín hữu Roma là phần chỉ dạy chính yếu lời Thánh Phaolô về số phận thân xác nhân loại mà nguyên lý cội rễ của thân xác là linh hồn (tiếng Hy Lạp là psyche, tiếng Do Thái là nefesh: tc. Stk 2:7). Linh hồn là nguyên lý tự nhiên. Thân xác dường như bị linh hồn bỏ quên vào lúc chết. Biến cố này đặt ra câu hỏi về sự bất tử như là một vấn đề về căn cốt trước khi là đề tài suy luận triết học.
Theo Thánh Tông Đồ Phaolô, việc Chúa Kitô phục sinh đã trả lời nghi vấn này với niềm xác tín. Thân xác Chúa Kitô, tràn đầy Chúa Thánh Linh khi phục sinh, là nguồn mạch sự sống mới cho các thân xác được phục sinh: “(Thứ gì được) gieo xuống là thể phách (thân xác tự nhiên); thứ gì phục sinh là “tinh anh (thân thể linh thiêng)” (1 Cor 15:44a). Thân xác “tự nhiên” (được linh hồn, psyche - làm cho sinh động) phải biến đi để nhường chỗ cho “thân xác linh thiêng” mà pneuma, Thần Khí (Thánh Linh) làm cho linh hoạt. Thánh Linh là nguyên lý của sự sống mới đã hiện diện sẵn trong sự sống vốn phải chết (tc. Rom 1:9; 5:5), nhưng sau lâm tử nó đạt tới toàn vẹn hiệu năng. Khi đó Thánh Linh sẽ làm cho thân xác tự nhiên phục sinh trong thực tại trọn vẹn của thân thể linh thiêng nhờ kết hiệp với Chúa Kitô phục sinh (tc. Rom 1:4; 8:11), vì Ngài là con người thiên đàng và “Thần Linh ban sự sống” (1 Cor 15:45-49).
Vì thế, sự phục sinh thân xác chúng ta trong tương lai nối kết với việc tinh thần hóa thân thể của chúng ta cũng tương tự như thân xác Chúa Kitô, mà quyền năng Chúa Thánh Linh làm cho sinh động. Lời thánh Tông Đồ giải đáp về nghi vấn chính ngài nêu ra như sau: “Người chết được phục sinh thế nào? Họ sống lại bằng nhục thể nào?” (1 Cor 15:35). Thánh Phaolô thốt lên: “Đồ ngốc! Thứ anh em gieo xuống thì thứ đó phải chết đi mới đem lại sự sống. Thứ anh em gieo xuống không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng chỉ là hạt lúa trơ trụi, có thể, hoặc một thứ nào khác; nhưng Thiên Chúa cho nó một hình thể như Ngài muốn ... Việc người chết sống lại cũng vậy ... được gieo xuống là thân xác tự nhiên; được làm cho sống lại là thân xác linh thiêng” (1 Cor 15:36-44).
Theo Thánh Tông Đồ Phaolô, sự sống trong Chúa Kitô đồng thời cũng là sự sống trong Chúa Thánh Linh: “Nhưng anh chị em không ở trong xác thịt, trái lại anh chị em ở trong thần khí, nếu như Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh chị em. Người nào không có Thần Linh Chúa Kitô thì không thuộc về Ngài” (Rom 8:9). Tự do đích thực chỉ tìm thấy trong Chúa Kitô và Thánh Linh của Ngài, “vì luật thần linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô giải phóng anh chị em khỏi luật của tội lỗi và sự chết” (Rom 8:2). Thánh hóa trong Chúa Kitô đồng thời cũng thánh hóa trong Chúa Thánh Linh (chẳng hạn, theo I Cor 1:2; Rom 15:16). Nếu Chúa Kitô “cầu bầu cho chúng ta” (Rom 8:34), thì khi đó Chúa Thánh Linh cũng “cầu xin cho chúng ta với những tiếng rên rỉ khôn tả ... Ngài chuyển cầu cho những người thánh thiện theo đúng ý Thiên Chúa” (Rom 8:26-27).
Theo những văn bản này của Thánh Phaolô thì rõ ràng là Chúa Thánh Linh, Đấng đã làm cho Chúa Kitô sống lại, sẽ thông ban sự sống mới cho các Kitô hữu trong viễn ảnh phục sinh ngày thế mạt. Có sự liên tục giữa việc phục sinh của Chúa Kitô với sự sống mới của các Kitô hữu được giải phóng khỏi tội lỗi để trở nên những người chia sẻ mầu nhiệm Vượt Qua và tái tạo việc kết hiệp thân xác với linh hồn trong sự sống lại của kẻ chết. Chúa Thánh Linh tạo ra sự trưởng thành về đời sống mới trong Chúa Kitô.
Chúng ta có thể nói sứ mệnh của Chúa Kitô thực sự đạt tới tột đỉnh trong mầu nhiệm Vượt Qua. Trong mầu nhiệm Vượt Qua, sự nối kết mật thiết giữa Kitô học và Thánh Linh học mở ra bầu trời thế mạt trước mắt các tín hữu và việc khảo cứu của các thần học gia. Nhưng viễn ảnh này cũng bao gồm chừng mực nào đó của môn Giáo Hội học; vì “Giáo Hội ... loan truyền Đấng ban ... sự sống là Chúa Thánh Linh: Giáo Hội loan truyền Thánh Linh và cộng tác với Thánh Linh trong việc ban sự sống. ‘Mặc dầu rằng thân xác anh chị em phải chết vì tội lỗi, thần khí của anh chị em hằng sống nhờ sự công chính’ (Rom 8:10), mà sự công chính sở dĩ hoàn thành được là nhờ Chúa Kitô chịu khổ hình thập giá và phục sinh. Và nhân danh Chúa Kitô phục sinh Giáo Hội kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Linh cùng khiêm tốn phục vụ sự sống mà chính Thiên Chúa ban cho” (DViv 68).
Tâm cốt của phụng vụ này là Nhiệm Tích Thánh Thể. Trong Nhiệm Tích này, ơn cứu độ của Chúa Kitô tồn tục (continues) và canh tân không ngừng. Nhiệm Tích Thánh Thể cũng còn bao gồm uy lực ban sự sống của Chúa Thánh Linh. Vì thế, Phép Thánh Thể là nhiệm tích mà trong đó Chúa Thánh Linh tiếp tục làm việc và “mạc khải chính Ngài” là nguồn gốc căn bản của loài người trong thời gian và vĩnh cửu. Theo lời Chúa Giêsu nói ở Capernaum thì Chúa Thánh Linh là nguồn sáng soi tâm trí và sức mạnh chỉ đạo: “Chính Thánh Linh là Đấng ban sự sống ... Những lời Tôi nói với anh chị em” (về bánh bởi trời”) “là thần linh và sự sống” (Jn 6:63).
Buổi gặp chung ngày 8 tháng Tám, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Mạc Khải về Ngôi Vị Chúa Thánh Linh
Cho tới nay chúng ta đã nỗ lực suy tư rất nhiều về hoạt động của Chúa Thánh Linh, trước tiên nghiên cứu trong ánh sáng Cựu Ước, kế đến trong những thời điểm khác nhau trong cuộc đời Chúa Kitô. Bây giờ chúng ta hướng sang nghiên cứu mầu nhiệm Ngôi Vị Thiên Chúa của Chúa Thánh Linh, Đấng hằng hữu trong hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con, trong việc hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đã đạt tới thượng đỉnh của giai đoạn (mà) nhiều lần đề cập đến là Thiên Chúa tự khải: việc hiển lộ bản tính sâu thẳm của Ngài mà Chúa Giêsu dạy chúng ta nhận biết và gọi là Cha. Thiên Chúa chân thực và tốt lành đời đời luôn luôn duy trì một thứ giáo khoa siêu việt để dạy và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Chân lý này cũng xảy ra trong mạc khải về Chúa Thánh Linh.
Thánh Gregory Nazianzen nhắc lại điều này trong một áng văn tuyện tác giải thích chủ đề chính về hành động không ngừng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ liên quan với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của các Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất về bản tính thần linh. Vị đại Thánh Phụ của Giáo Hội (Gregory Nazianzen) nói: “Thực ra Cựu Ước đã cho chúng ta biết về Chúa Cha, và thoáng qua về Chúa Con, Tân Ước minh họa Chúa Con và cho biết về bản tính Thiên Chúa của Chúa Thánh Linh. Bây giờ Chúa Thánh Linh ở trong chúng ta và hiển lộ cho chúng ta biết rõ về Ngài hơn. Tôi (Thánh Gregory Nazarian) nói điều những điều sau đây một cách rất quả quyết: thật không khôn ngoan chút nào nếu công khai nói về Chúa Con trong khi thiên tính của Chúa Cha lại chưa được tuyên xưng và chưa thấu triệt về Chúa Thánh Linh, trước khi thiên tính của Chúa Con được nhìn nhận” (Orat. XXXI, Theol. V, 26: PG 36, 161). Như thế, theo Thánh Gregory Nazianzen, thiệt khó mà người ta chấp nhận mạc khải về Thiên Chúa: một bản thể mà ba ngôi vị vì mạc khải đó vĩ đại hơn khả năng nhận biết của trí năng nhân loại nên những mạc khải đó thường chỉ được hiểu đại cương. Thật là khó, và vẫn luôn luôn như thế đối với nhiều người, ngay cả đến những người thành tâm đạo hạnh, như lịch sử Do Thái giáo và Hồi giáo đã cho thấy.
Trong những bài suy gẫm trước chúng ta thấy điều đó theo nhiều cách ở nhiều nơi, mà ngay đầu tiên, ở phần mở đầu Sách Sáng Thế (tc. St 1:2), Cựu Ước đã nói về thần khí (thánh linh) Thiên Chúa. Tiến trình giáo huấn này đã xảy ra trong mạc khải thần linh. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng chúng ta đang đề cập tới những lời tiên báo và linh nghiệm trước hành động của Chúa Thánh Linh trong lịch sử nhân loại, nhưng chưa đề cập, ít ra là gián tiếp hoặc không rõ ràng, tới Ngôi Vị của Ngài.
Trong bầu trời bao la của Cựu Ước chúng ta có thể nói về một khám phá, một “cảm giác” và một hiểu biết tiệm tiến về hoạt động của Thánh Linh. Tuy nhiên, hoạt động của Thánh Linh vẫn là bóng mờ về sự phân biệt các ngôi trong nhất quán tính của Thiên Chúa. Cả những áng văn lâu đời nhất cũng cho thấy một số hiện tượng về thế giới thể lý, tâm lý và tinh thần phát xuất từ Thánh Linh Thiên Chúa. Những hiện tượng đó nói về “hơi thở của Thiên Chúa” ban sự sống cho toàn thể mọi thụ tạo từ giây phút sáng thế, hoặc về sức mạnh siêu nhiên ban cho những người được kêu gọi thi hành sứ mệnh đặc biệt trong việc hướng dẫn và bảo vệ Dân Chúa, như sức khỏe của Samson (tc. Tl 14:6), việc tấn phong Gideon (tc. Tl 6:34) và chiến thắng của Jephthat trong trận chiến chống lại người Ammonites (tc.Tl 11:29). Trong những chỗ khác chúng ta thấy Thánh Linh Thiên Chúa không những chỉ “trao quyền” mà cũng “tác động mạnh” đến con người (chẳng hạn, Elijah: tc. 1 Vua 18:12), ảnh hưởng những chuyển động tâm tư và xuất thần của các ngôn sứ, hoặc ban khả năng giải thích giấc mơ (như ông Giuse ở Ai cập: tc. St 41:38). Trong tất cả những trường hợp này, vấn đề quan trọng là tính chất tức thời và đoản kỳ, nói một cách khác là đặc sủng, vì phúc lợi cho dân Chúa.
Mặt khác, cũng Sách Cựu Ước cho thấy nhiều trường hợp Thánh Linh Thiên Chúa hoạt động liên tục, theo ngôn ngữ Phúc Âm, là “ngự trên (ở trên, ở với)” một người nào đó, như đã xảy ra cho các ông Moses, Joshua, David, Elijah và Elisha. Các ngôn sứ là những người được ơn Thánh Linh Thiên Chúa cách đặc biệt. Sự nối kết giữa lời tiên tri và Thánh Linh Thiên Chúa đã được xác nhận trong truyện ông Balaam (Ds 24:2-3) và nhấn mạnh ở một chi tiết trong Sách I các Vua (I Vua 22:24). Sau thời lưu đày, ngôn sứ Ezekiel cho thấy ông biết rõ ràng nguồn gốc ơn linh ứng ở ông: “Thánh Linh của Chúa đến trên tôi và bảo tôi: ‘Hãy nói đi ...” (Ez 11:5). Ngôn sứ Zechariah nhớ lại Thiên Chúa đã nói với dân Ngài “nhờ Thánh Linh của Ngài qua các ngôn sứ (thời) trước” (Zec 7:12).
Trong giai đoạn này hiệu lực bản chất đạo đức cũng được quy gán hầu hết cho Thánh Linh Thiên Chúa và hành động của Ngài (chẳng hạn, trong Tv 51 và 143, và trong Sách Khôn Ngoan). Chúng ta đã lần lượt nhắc tới và phân tích những đoạn này.
Tuy nhiên, những văn bản có ý nghĩa và quan trọng nhất là những lời các ngôn sứ nói riêng về Thánh Linh Thiên Chúa ngự trên Đấng Thiên Sai, trên cộng đồng thiên sai và các thành viên cộng đồng này. Đặc biệt quan trọng là những văn bản lời ngôn sứ Isaiah nói về Đấng Thiên Sai. Trước hết là mạc khải Thánh Linh Thiên Chúa sẽ ở trên “chồi của dòng dõi Jesse,” miêu duệ và kế vị vua David (Is 11:1-2), kế đến ở trên “người tôi tớ Chúa” (Is 42:1), người sẽ là một “giao ước cho dân và ánh sáng cho mọi dân tộc” (Is 42:6), và sau cùng ở trên người rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc (Is 61:1; tc. Lc 4:18).
Theo những lời tiên tri xưa, Thánh Linh Thiên Chúa cũng canh tân bộ mặt tinh thần “những người Israel còn sót lại,” cộng đồng thiên sai vẫn còn trung thành với ơn gọi thần linh. Chúng ta biết được điều này không những chỉ do các đoạn trong sách ngôn sứ Isaiah (tc. Is 44:3; 59:21), mà cũng trong sách ngôn sứ Ezekiel (tc. Ez 36:27; 37:14), Joel (tc. Jl3:1-2) và Zechariah (tc. Zec 12:10).
Theo thể thức linh diệu như thế, Cựu Ước, với nhiều dẫn chiếu về hoạt động của Thánh Linh Thiên Chúa, chuẩn bị cho chúng ta hiểu những điều sẽ ban trong mạc khải Tân Ước về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa trong hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Con. Toàn thể sự kiện này phát triển theo hệ thống giáo khoa thần linh dẫn người ta tới hiểu biết và nhìn nhận mầu nhiệm vĩ đại nhất trong các mầu nhiệm: Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Lời Nhập Thể, Chúa Thánh Linh. Trong Cựu Ước mọi sự đều tập trung vào chân lý độc thần được ký thác cho dân Israel. Dân Israel phải luôn luôn cảnh giác bảo vệ và củng cố chân lý đó chống lại cám dỗ (khuynh hướng) đa thần đến từ mọi phương hướng.
Trong Tân Ước, chúng ta tiến tới một giai đoạn mới: sự nhận biết rộng rãi hơn về nhân vị con người đã cho chúng ta một ngữ cảnh mà trong đó mạc khải về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa có căn bản vững chắc. Chúa Thánh Linh là Đấng ngự trong con người, thánh hóa con người cách đặc biệt bằng sức mạnh tình yêu mà chính Ngài là tình yêu. Theo cách này mạc khải về Ngôi Thánh Linh (the Spirit-Person) cũng cho thấy chiều sâu nội tại của con người chúng ta. Và nhờ khám phá sâu xa hơn về tinh thần (tâm hồn) nhân loại (the human spirit), chúng ta ý thức rõ hơn nữa: Chúa Thánh Linh trở nên nguồn hiệp thông giữa nhân loại và Thiên Chúa, cũng như sự hiệp thông giữa con người với nhau. Những sơ kiến trên là tổng hợp mạc khải mới về Ngôi Thiên Chúa của Chúa Thánh Linh mà chúng ta sẽ học hỏi thêm trong bài giáo lý tới.
Buổi gặp chung ngày 22 tháng Tám, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Tân Ước Mạc Khải Trọn Vẹn Về Chúa Ba Ngôi
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với mười một tông đồ, Ngài nói với các ông: “... anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19). Chính Tông Đồ Thánh Sử Matthêu, vào cuối Phúc Âm của ngài, cũng cho chúng ta biết về lệnh truyền Chúa Giêsu Kitô phái các tông đồ đi khắp thế giới để làm chứng về Ngài và tiếp tục công cuộc cứu độ của Ngài. Theo truyền thống Kitô Giáo, Phép Rửa cử hành nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi thi hành đúng những lời này. Tuy nhiên, lời Phúc Âm theo Thánh Matthêu gồm có điều gì khác mà chúng ta có thể coi như là lời kết thúc mạc khải chân lý về Chúa Ba Ngôi: mạc khải về Chúa Thánh Linh là một Ngôi đồng vị với Chúa Cha và Chúa Con, đồng bản tính với Ngôi Cha và Ngôi Con trong hiệp nhất thiên tính.
Mạc khải dẫn thượng thuộc về Tân Ước. Trong Cựu Ước, Thánh Linh Thiên Chúa là việc hiển lộ quyền năng, sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa theo nhiều thể thức hành động mà chúng ta đã đề cập tới trong những bài giáo lý trước. Trong Tân Ước chúng ta chuyển hóa mạc khải Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa.
Cách diễn tả trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu 28:19 mạc khải rõ Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa vì đoạn Phúc Âm Mt 21:19 gọi (cho thấy) rõ tên Chúa Thánh Linh theo cùng một cách y hệt như Ngôi Cha và Ngôi Con, mà không có một khác biệt nào: “Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh.” Phúc Âm theo thánh Matthêu cho thấy rõ Chúa Cha và Chúa Con là hai Ngôi riêng biệt. “Chúa Cha” là Đấng mà Chúa Giêsu gọi là “Cha của Tôi trên trời” (Mt 15:13; 16:17; 18:35); “Chúa Con” là chính Chúa Giêsu, được minh định như thế do tiếng từ trời phán ra khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mt 3:17) và khi Chúa hiển lộ vinh quang (hiển dung, biến hình cả sáng) (Mt 17:5). Ông Simon Phêrô nhìn nhận Chúa Giêsu là “Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng hữu” (Mt 16:16). Lúc này Ngôi Thứ Ba, “Chúa Thánh Linh,” kết hiệp với (Ngôi) Chúa Cha và Chúa Con cùng một cách y hệt. Việc kết hiệp này được thể hiện mật thiết hơn nữa qua cách diễn tả trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu 28:19, nói lên danh xưng của Ba Ngôi Thiên Chúa, mô tả việc các tông đồ làm Phép Rửa cho muôn dân “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh.” Trong Phúc Âm, quán từ “nhân danh ...” thường không được dùng để nói tới (nhắc tới) bất cứ thứ gì khác ngoài những ngôi vị. Chúng ta cũng cần nhận ghi nhận rằng trong Phúc Âm Matthêu 28:19 tác giả dùng từ (ngữ) “danh (name)” ở số ít (in the singular) mặc dầu từ ngữ đó nói tới nhiều ngôi vị. Từ tất cả mọi điều này chúng ta không thể có kết luận nào khác: Chúa Thánh Linh là Ngôi thứ Ba Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và Chúa Con trong cùng một đơn vị của “danh xưng” thần linh duy nhất.
Phép Rửa theo Chúa Kitô đặt chúng ta trong mối liên hệ mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa, như thế đưa chúng ta vào tình trạng kề cận với Thiên Chúa. Mỗi lần chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta nhắc lại lời Phúc Âm để canh tân mối liên hệ của chúng ta với Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Nhìn nhận Chúa Thánh Linh là một điều kiện chính yếu đối với đời sống đức tin và đức ái Kitô hữu.
Những lời Chúa Kitô phục sinh nói về Phép Rửa (tc. Mt 28:19) không xảy ra nếu không có phần chuẩn bị trong Phúc Âm Matthêu 3:16-17. Những lời trong Matthêu 28:19 có liên hệ với việc thần hiển của Thiên Chúa Ba Ngôi khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mt 3:16-17). Thánh Matthêu cho biết khi Chúa Giêsu lên khỏi nước, “các tầng trời mở ra và người ta thấy Thánh Linh Thiên Chúa tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Và có tiếng từ trời phán, ‘Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hoàn toàn hài lòng về Ngài’” (Mt 3:16-17). Cũng hình ảnh này được hai Phúc Âm Nhất Lãm khác mô tả tương tự (tc. Mk 1:9-11; Lc 3:21-22). Trong hình ảnh Chúa Giêsu chịu phép rửa tại Sông Jordan, chúng ta thấy một mạc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngôi Vị Chúa Giêsu được chỉ rõ do lời minh định về Chúa Con; Ngôi Vị Chúa Cha được minh họa qua lời nói, “Đây là Con ... của Ta”; và Ngôi Vị của Thánh Linh Thiên Chúa xuất hiện như thể khác biệt với Ngôi Cha và Ngôi Con trong mối liên hệ với cả hai Ngôi này. Chúa Thánh Linh có liên hệ với Chúa Cha trên trời, vì Ngài từ trời cao ngự xuống, và có liên hệ với Chúa Con, vì Ngài xuống ngự trên Chúa Con. Cách giải thích này, thoáng nhìn, có vẻ không vững, nhưng nếu đối chiếu với câu kết Phúc Âm Matthêu (tc. Mt 28:19) thì thấy nền tảng của giải thích đó vững chắc.
Theo lời Thánh Luca tường thuật, Thiên Chúa phái thiên sứ Gabriel đến gặp một trinh nữ tên là Maria, loan báo cho Người thánh ý Thiên Chúa Cha Hằng Hữu bằng những lời: “Này, Trinh Nữ sẽ bẩm thai và sinh Con Trai, và Trinh Nữ sẽ đặt tên Ngài là Giêsu. Ngài sẽ lên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1:31-33). Khi Đức Maria hỏi làm sao việc đó có thể xảy ra trong hoàn cảnh trinh khiết của Người, thiên sứ đáp: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống với Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ. Vì thế, con trẻ được sinh ra sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1:34-35).
Chính văn bản này không cho biết Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa. Văn bản đó chỉ nói Chúa Thánh Linh hiện hữu theo một cách nào đó khác biệt với Đấng Tối Cao, tức là khác với Chúa Cha, và khác với Chúa Con của Đấng Tối Cao. Tuy nhiên, khi chúng ta đọc lời Phúc Âm Luca 1:34-35 dưới ánh sáng đức tin, “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19), chúng ta nhìn thấy nhất quán tính (sự hiệp nhất) của Ba Ngôi Thiên Chúa trong việc hoàn thành mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời. Ngôi Vị Chúa Thánh Linh đóng góp cho việc hoàn thành này theo chương trình của Chúa Cha, chương trình đó được Chúa Con ưng thuận trọn vẹn. Do quyền năng Chúa Thánh Linh mà Thiên Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha hằng hữu, bẩm thai làm người và sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria. Trong những bài giáo lý trước chúng ta đã nói về mầu nhiệm này vừa thuộc về Kitô học vừa thuộc về Thánh Linh học. Ở đây chúng ta chỉ cần nhắc lại mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, đặc biệt về Ngôi Vị Chúa Thánh Linh, được mạc khải khi thiên sứ loan báo cho Đức Maria.
Trong điểm này chúng ta cũng có thể nêu lên một suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong môn nhân chủng học Kitô Giáo. Có một nối kết giữa việc Con Hằng Hữu của Thiên Chúa giáng sinh trong bản tính nhân loại và “việc tái sinh” của con cái loài người do ơn thừa nhận của Thiên Chúa. Sự nối kết này thuộc về công cuộc cứu độ. Như thế, Phép Rửa được thiết lập trong chương trình cứu chuộc.
Bởi thế mạc khải về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa đồng bản tính trong hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa, đặc biệt sáng tỏ cả trong mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa Hằng Hữu và trong mầu nhiệm Thiên Chúa thừa nhận con cái loài người. Trong mầu nhiệm này lời loan báo của Vị Tẩy Giả về Chúa Kitô tại sông Jordan được hoàn thành trọn vẹn: “Ngài sẽ làm Phép Rửa bằng Chúa Thánh Linh” (Mt 3:11). Việc thừa nhận siêu nhiên này được thể hiện nhờ bí tích thánh là Phép Rửa (Jn 3:5).
Buổi gặp chung ngày 29 tháng Tám, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh Là Đấng Chủ Động Công Việc của Chúa Giêsu
Trong Tân Ước, Chúa Thánh Linh cho thấy chính Ngài là một Ngôi Thiên Chúa đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con trong hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi, qua những hành động mà các tác giả được thần hướng quy chiếu cho Ngài. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể chuyển từ hành động sang “đặc tính” của một Ngôi Vị theo nghĩa thần học thuần túy. Nhưng lời lẽ trong những bài giáo lý của chúng ta đủ cho chúng ta hiểu Chúa Thánh Linh là gì trong thực thể Thần Linh qua các hoạt động của Ngài. Ngoài ra, đây là con đường mà các thánh Giáo Phụ và Tiến sĩ Giáo Hội đã theo (tc. Summa Theol., I, q. 30, aa. 7-8).
Trong bài giáo lý này, chúng ta giới hạn trong những lời của Phúc Âm Nhất Lãm. Sau đó chúng ta cũng nhắc tới những sách khác trong Tân Ước. Chúng ta đã thấy, trong tường thuật về biến cố Truyền Tin, Chúa Thánh Linh tỏ hiện chính mình là Đấng chủ động, thiên sứ nói với Đức Maria: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ” (Lc 1:15). Vì thế chúng ta có thể nhận biết Chúa Thánh Linh là nguyên lý hành động, đặc biệt trong việc Ngôi Lời nhập thể. Đúng như thế, vì Chúa Thánh Linh là Tình Yêu Hằng Hữu (đặc tính của Ngôi Thứ Ba), là sức mạnh hành động, sức mạnh tình yêu, được quy cho Ngài.
Những chương đầu trong Phúc Âm theo Thánh Luca nhiều lần nói về Chúa Thánh Linh hoạt động nơi những người có liên quan mật thiết với mầu nhiệm Nhập Thể. Sự việc này xảy ra cho bà Elisabeth, bà đã được tràn đầy Chúa Thánh Linh khi Đức Maria tới thăm viếng. Nhờ thần hướng, bà chào đón người em họ được chúc phúc của bà (tc. Lc 1:41-45). Điều đó xảy ra còn mãnh liệt hơn đối với cụ già thánh thiện Simeon khi Chúa Thánh Linh đã mạc khải riêng cho cụ và báo cho cụ biết cụ sẽ nhìn thấy “Đấng Thiên Sai của Chúa” trước khi lìa đời (tc. Lc 2:26). Nhờ Chúa Thánh Linh hướng dẫn và thúc đẩy, cụ đã ẵm Con Trẻ (Chúa Hài Đồng) trong vòng tay và nói những lời tiên tri bao gồm một tổng quan (synthesis) trọn vẹn đầy xúc động về toàn thể sứ mệnh thiên sai của Con Đức Maria (tc. Lc 2:27 ff.). Hơn bất cứ người nào khác, Đức Trinh Nữ Maria ở trong vòng ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh (tc. Lc 1:35). Hiển nhiên Chúa Thánh Linh đã ban cho Đức Maria sự hiểu biết sâu xa mầu nhiệm Nhập Thể và khuyến khích Người chấp nhận sứ mệnh trao phó, và vui mừng hát lên khi suy gẫm chương trình quan phòng về ơn cứu độ (tc. Lc 1:26 ff.).
Những nét đan thanh phác họa về hoạt động của Chúa Thánh Linh trong những người thánh thiện này, vì Chúa Thánh Linh là Tình Yêu toàn năng, ban ánh sáng, sức mạnh, an ủi và khuyến khích tích cực cho các vị ấy. Nhưng gương mẫu đó còn rõ ràng hơn nữa trong cuộc đời chính Chúa Giêsu. Cuộc đời Chúa Giêsu sống hoàn toàn dưới sự thúc đẩy và hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, do việc thể hiện trong chính Chúa (Giêsu) lời ngôn sứ Isaiah về sứ mệnh Đấng Thiên Sai: “Thánh Linh Chúa ngự trên Tôi vì Ngài đã xức dầu Tôi để đem tin mừng cho người nghèo khó. Ngài đã phái Tôi loan báo tự do cho người bị tù đày, hồi phục ánh sáng cho người mù lòa, giải phóng người bị áp bức và loan báo một năm hồng ân của Chúa” (tc. Lc 4:18; Is 61:1). Chúng ta biết Chúa Giêsu lớn tiếng đọc những lời tiên tri này tại hội đường Nazareth và tuyên bố từ lúc đó trở đi những lời này được hoàn tất trong Ngài (tc. Lc 4:21).
Những lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu đều là việc trải mở ra sứ mệnh thiên sai trong đó Thánh Linh Thiên Chúa hoạt động, như lời ngôn sứ Isaiah đã loan báo. Hành động tiềm ẩn của Chúa Thánh Linh trong việc bộc lộ toàn thể sứ mệnh này được Chúa Giêsu thể hiện cách hữu hình, công khai và lịch sử. Như thế việc đó cũng đủ làm chứng và cho thấy hành động và Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh theo những lời của Chúa Giêsu mà các thánh sử và các tác giả Sách Thánh tường thuật.
Đôi lần các thánh sử cũng nhấn mạnh sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Linh một cách đặc biệt trong Chúa Kitô, như khi các ngài nói về việc Chúa Kitô ăn chay và chịu cám dỗ trong sa mạc: “Chúa Giêsu được Thánh Linh dẫn vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ” (Mt 4:1; tc. Mc 1:12). Cách diễn tả mà thánh sử sử dụng mô tả về Thánh Linh là Đấng hướng dẫn người khác tới điều gì. Các thánh sử quy chiếu viễn ảnh này cho hoạt động của Chúa Thánh Linh trong sứ mệnh thiên sai mà Chúa Kitô đã thể hiện để chiến thắng ma quỉ, từ lúc khởi đầu cuộc chiến đấu chống lại tên là “kẻ dối trá và cha sự dối trá” (Jn 8:44): kẻ khước từ nước Thiên Chúa. Chúa Kitô chiến thắng Satan vào lúc khởi đầu hoạt động thiên sai của Ngài là sự kiện mở đầu và loan báo chiến thắng cuối cùng của Chúa trên thánh giá và phục sinh.
Chính Chúa Giêsu quy chiến thắng này cho Chúa Thánh Linh trong mỗi giai đoạn thuộc sứ mệnh của Ngài. Chúa Giêsu nói “Tôi nhờ Thánh Linh Thiên Chúa mà trừ quỉ” (Mt 12:28). Quyền năng của Chúa Thánh Linh được minh họa trong cuộc chiến đấu và vinh thắng của Chúa Kitô. Đây là sức mạnh nội tâm vô địch và liên tục tạo ra chiến thắng chống lại ma quỉ. Đó là lý do Chúa Giêsu mạnh mẽ khuyến cáo những người nghe Chúa giảng về tội mà chính Chúa gọi là “tội phạm thượng chống lại Chúa Thánh Linh” (Mt 12:31-32; theo Mc 3:29; Lc 12:10). Cả ở đây nữa những cách diễn tả mà các thánh sử dùng đều mô tả Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa. Cũng phải kể đến điểm song song giữa những kẻ nói phạm đến Con Người và ngôi vị Chúa Thánh Linh (the person of the Holy Spirit: tc. Mt 12:32; Lc 12:10). Lời nói phạm đến Chúa Thánh Linh được tuyên bố là nghiêm trọng hơn. “Phạm tội chống lại Chúa Thánh Linh” có nghĩa là tự đặt mình vào phía thần tối tăm với kết quả là kẻ đó tự mình cắt đứt hành động thánh hóa của Thánh Linh Thiên Chúa. Vì thế Chúa Giêsu mới nói thứ tội này không thể được tha thứ “cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12:32). Khước từ Chúa Thánh Linh là khước từ chính nguồn mạch sự sống và sự thánh thiện. Như thế, một cách tự do con người tự ý loại mình ra khỏi các hành động cứu độ của Thiên Chúa.
Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu về tội chống lại Chúa Thánh Linh bao gồm ít nhất cách không rõ ràng một mạc khải bổ sung về Ngôi Vị và hành động thánh hóa của Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa. Ngài là vai chính trong việc chiến đấu chống lại thần dữ và là vai chủ chốt quyết định trong chiến thắng của người lành.
Cũng vẫn theo các Phúc Âm Nhất Lãm thì việc làm của Chúa Thánh Linh là căn nguyên niềm vui nội tâm sâu xa nhất. Chính Chúa Giêsu trải qua “sự vui mừng hoan hỉ” đặc biệt này “trong Chúa Thánh Linh” khi Chúa nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con tạ ơn Cha, vì mặc dầu Cha đã giấu những điều này không cho những người khôn ngoan uyên bác biết, Cha đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, đó là thánh ý nhân lành của Cha” (Lc 1:21; tc. Mt 11:25-26). Trong Phúc Âm Thánh Luca và Matthêu, sự kiện này nối tiếp bằng những lời Chúa Giêsu nói: Chúa Con hiểu biết về Chúa Cha và Chúa Cha biết về Chúa Con. Sự hiểu biết này được chính Chúa Con truyền thông cho những “người bé mọn” này.
Vì thế, Chúa Thánh Linh cũng ban cho các môn đệ Chúa Giêsu không những chỉ sức mạnh chiến thắng sự dữ, chiến thắng “thần dữ” (Lc 10:17), mà cũng ban cho các ngài niềm vui siêu nhiên về khám phá ra Thiên Chúa và đời sống trong Thiên Chúa qua Con của Ngài.
Sức mạnh hành động của Chúa Thánh Linh tràn đầy sứ mệnh của Chúa Kitô cũng sẽ đồng hành với các tông đồ và môn đệ trong công việc các ngài thi hành theo mệnh lệnh Thần Linh. Chính Chúa Giêsu nói với các tông đồ và môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên anh em và anh em sẽ làm chứng cho Thầy ... tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Cho dù trong tiến trình làm chứng nhân cho Chúa Giêsu các ngài phải đương đầu với đàn áp, tù tội và tra khảo trước pháp đình, Chúa Giêsu bảo đảm với các ngài: “Vào lúc đó anh em sẽ được cho biết điều anh em phải nói. Vì không phải chính anh em nói, mà Thánh Linh của Cha anh em nói qua anh em” (Mt 10:19-20; tc. Mc 13:11). Chúng ta biết chỉ con người mới nói. Chứ những lực vô tính có thể chuyển động, đẩy tới và tiêu hủy, nhưng các lực đó không thể nói ra lời, không biết nói. Còn Thánh Linh mới nói. Ngài linh ứng và an ủi các tông đồ và Giáo Hội trong những lúc khó khăn. Đó là một đặc tính khác nữa của hành động của Chúa Thánh Linh, một tia sáng khác nữa chiếu trên mầu nhiệm về Ngôi Vị Thiên Chúa của Ngài.
Vì thế chúng ta có thể nói: trong các Phúc Âm Nhất Lãm Chúa Thánh Linh hiển lộ chính Ngài là một Ngôi Thiên Chúa hoạt động trong toàn thể sứ mệnh Chúa Kitô. Trong cuộc đời và lịch sử những người theo Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh giải phóng họ khỏi sự dữ, cho họ sức mạnh chiến đấu chống lại thần tối tăm, và tăng thêm niềm vui siêu nhiên về hiểu biết Thiên Chúa và làm chứng nhân cho Ngài ngay cả trong những thời gian thử thách. Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa hoạt động với sức mạnh thần linh, nhất là trong sứ mệnh thiên sai của Chúa Giêsu và sau đó trong việc dẫn dắt người ta đến với Chúa Kitô và hướng dẫn những người được gọi tham dự vào sứ mệnh cứu độ của Ngài.
Buổi gặp chung ngày 19 tháng Chín, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Đấng Phù Trợ Ở Cùng Chúng Ta
Trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, thánh sử tông đồ làm nổi bật mối liên hệ khăng khít giữa Chúa Con và Chúa Cha hơn các Phúc Âm Nhất Lãm. Điều này có thể được nhận thấy ngay trong phần dẫn nhập, thánh sử chăm chú tập trung vào thực tại hằng hữu của Chúa Cha và Ngôi Lời - Chúa Con. Thánh sử mở đầu Phúc Âm: “Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời hiện hữu từ khởi đầu với Thiên Chúa” (Jn 1:1-2). Rồi ngài kết luận: “Không một ai đã nhìn thấy Thiên Chúa. Chỉ duy Con một Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Đấng ở bên Chúa Cha, mạc khải về Thiên Chúa”(Jn 1:18). Những sự kiện trên khẳng định cách hoàn toàn mới trong lịch sử suy tư của con người về Thiên Chúa và trong chính mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi. Nội dung sâu sắc và phong phú của mạc khải về Thiên Chúa cống hiến cho ngành thần học sẽ không bao giờ khô cạn hoặc có thể giải thích đầy đủ được. Ngành giáo dục tôn giáo cũng luôn luôn cần phải dẫn chiếu mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi, không những về lãnh vực Kitô học mà cũng cả trên lãnh vực Thánh Linh học.
Chính sự hiệp nhất Chúa Con với Chúa Cha, cũng được nhấn mạnh ở những phần khác trong Phúc Âm theo thánh Gioan, dường như mở đường cho các tông đồ hiểu mạc khải về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa.
Ý nghĩa đáng kể rõ ràng là chúng ta tìm thấy những lời Chúa Giêsu liên hệ trực tiếp nhất về Chúa Thánh Linh trong lời từ biệt tại căn phòng trên lầu. Như thế những lời mạc khải về Chúa Thánh Linh được đưa ra ánh sáng ngay tức khắc trước khi Chúa Con ra đi để trở về với Chúa Cha qua khổ hình thập giá và phục sinh. Lúc đó Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác ở với anh em luôn mãi. Đấng Phù Trợ là Thánh Linh chân lý mà thế gian không thể chấp nhận vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Ngài” (Jn 14:16-17). Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Linh là “Đấng Phù Trợ”, cho thấy Chúa Thánh Linh là một Ngôi Vị, tách biệt với Chúa Cha và Chúa Con. Từ ngữ Hy Lạp Parákletos luôn luôn được áp dụng cho một nhân vị, vì Parákletos có nghĩa là trạng sư, người bảo vệ, hoặc người an ủi. Chỉ có con người mới có thể chu toàn những công việc đó. Vì khi dùng từ ngữ “Đấng Phù Trợ khác,” Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu suốt cuộc đời trần thế của Chúa thì chính Chúa là “Đấng Phù Trợ” đệ nhất của các môn đệ. Chúa Giêsu còn quả quyết điều này rõ ràng hơn trong lời cầu nguyện tư tế khi Ngài nói với Chúa Cha: “Khi Con ở với họ, Con đã bảo vệ họ nhân danh Cha mà Cha đã ban cho Con, và Con đã gìn giữ họ” (Jn 17:12). Sau khi Chúa Giêsu ra đi, Chúa Thánh Linh sẽ thay thế Chúa Giêsu ở giữa các môn đệ vẫn còn đang sống giữa thế gian để bảo vệ các ngài trong những vật lộn cam go các ngài phải đương đầu và giúp các ngài can đảm trong mọi thử thách khó khăn.
Trong lời từ biệt, Đấng Phù Trợ nhiều lần được gọi là “Thánh Linh chân lý” (tc. Jn 14:17). Tước vị này nhìn nhận sứ mệnh dành cho Chúa Thánh Linh đối với các tông đồ và Giáo Hội: “Đấng Phù Trợ: Chúa Thánh Linh Đấng mà Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy anh em mọi điều và nhắc anh em nhớ mọi điều Thầy đã dạy anh em” (Jn 14:26). “Dạy,” “nhắc nhớ”; những hành động này cho thấy rõ ràng Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa. Chỉ có con người mới có thể làm những việc đó. Sứ mệnh giảng dạy chân lý, mà Chúa Kitô ký thác cho các tông đồ và Giáo Hội, bây giờ và mai mãi sẽ liên kết chặt chẽ với hành động của Thánh Linh chân lý.
Cũng nhận xét đó áp dụng cho việc làm chứng về Chúa Kitô trước thế giới. “Khi Đấng Phù Trợ mà Thầy sẽ phái từ Chúa Cha đến với anh em, Thánh Linh chân lý Đấng từ Chúa Cha mà ra, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:26). Chỉ có một người mới có thể làm chứng về người khác. Các tông đồ sẽ làm chứng về Chúa Kitô. Việc làm chứng của các ngài với tư cách là những con người sẽ được củng cố và xác nhận bởi việc làm chứng của Chúa Thánh Linh, Đấng là một Ngôi Thiên Chúa.
Chính vì thế Chúa Thánh Linh là vị thầy vô hình không ngừng giáo huấn, tức là gieo Phúc Âm của Chúa Kitô, vào mọi thế hệ. “Nhưng khi Thánh Linh chân lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới toàn chân lý. Ngài không tự mình nói ra, nhưng Ngài nói những gì Ngài nghe, và sẽ cho anh em biết những điều sẽ xảy ra” (Jn 16:13). Từ sự kiện này, chúng ta suy ra Chúa Thánh Linh không những chỉ canh giữ Giáo Hội về tính cách vững chắc và đồng nhất về chân lý trong Chúa Kitô; Chúa Thánh Linh cũng dạy dỗ cách truyền đạt chân lý này cho các thế hệ mai sau, những thế hệ sẽ tiếp tục xuất hiện qua mọi thời đại, dân tộc và xã hội tại nhiều nơi khác nhau, theo nhu cầu và khả năng hiểu biết của họ, ban cho mỗi người sức mạnh nội tâm để vươn lên và thích ứng đời sống của mình với chân lý đức tin.
Tông Huấn Dominum et Vivificantem (tc. các số 27-28) đã nhấn mạnh đến một khía cạnh đặc biệt của hành động giáo huấn, mà đó chính là điều Chúa Giêsu đã loan báo: “Và khi Ngài tới Ngài sẽ kết án thế giới về tội lỗi và sự công chính và việc xét xử” (Jn 16:8). Quyền đặc biệt lên án thế giới này, tức là tội lỗi con người ở thế gian, là khía cạnh chính yếu thuộc sứ mệnh Thánh Linh Chân Lý. Theo chính lời Chúa Giêsu: lên án về việc xét xử có nghĩa là “quyền lực thế gian đã bị lên án rồi” (Jn 16:11). Đấng An Ủi và Phù Trợ sẽ đến chính là Chúa Thánh Linh, Ngài phải hướng dẫn nhân loại chiến thắng ma quỉ và những việc ma quỉ làm trong thế giới.
Cái chết cứu độ của Chúa Kitô trên thánh giá nối kết chặt chẽ với điều Ngài ban cho các tông đồ sau khi phục sinh: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh; anh em tha tội cho người nào thì tội lỗi của người đó được tha thứ” (Jn 20:22-23). Đây là phương pháp dẫn tới chiến thắng những đường lối của ma quỉ mà Thánh Linh Chân Lý luôn luôn lên án.
Tất cả những đoạn trong lời từ biệt của Chúa Giêsu tại căn phòng trên lầu (phòng Tiệc Ly) cho biết Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa đồng bản tính trong hiệp nhất Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con. Những lời trên đây cho thấy Chúa Thánh Linh liên kết mật thiết với công cuộc cứu chuộc mà Chúa Kitô hoàn tất: “Vì nếu Thầy không đi,” bỏ thế giới này về với Chúa Cha, “Đấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em” (Jn 16:7). Cũng có những đoạn khác rất quan trọng về chủ đề này.
Chúa Giêsu loan báo Chúa Thánh Linh sẽ đến “ở” với chúng ta: “(Và) Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác ở với anh em luôn mãi” (Jn 14:17). Những lời này diễn tả Chúa Thánh Linh như vị khách nội tâm ở lại trong trái tim mọi người: trong bất cứ tâm hồn nào thuộc về Chúa Kitô đều đón nhận Chúa Thánh Linh. Chúa Cha và Chúa Con cũng đến “ở” trong những linh hồn này (Jn 14:23). Bởi thế cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hiện diện trong những linh hồn này, vì đây là sự hiện diện tâm linh, sự hiện diện này nhắc tới Ngôi Chúa Thánh Linh cách trực tiếp nhất.
Qua việc Chúa Thánh Linh hiện diện và hoạt động trong linh hồn, chúng ta có thể trở nên “người phụng thờ đích thực” Thiên Chúa Đấng “là thần linh” (Jn 4:24), như Chúa Giêsu đã nói khi gặp người phụ nữ Samaria tại giếng Jacob (tc. Jn 4:23). Thời điểm người ta “thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý” đã đến với Chúa Kitô và trở nên điều đích thực nơi mỗi người chấp nhận sống theo linh ứng và chỉ dẫn của Chúa Thánh Linh. Đây là yếu tố vĩ đại và thánh thiện nhất trong đời sống tinh thần người Kitô hữu.
Buổi gặp chung ngày 26 tháng Chín, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh theo Thư Thánh Phaolô
Thánh Phaolô kết luận Thư II gửi giáo đoàn tại Corinth bằng lời chúc lừng danh: “Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và tình yêu của Thiên Chúa Cha và tình thông hiệp của Chúa Thánh Linh ở với tất cả anh chị em” (2 Cor 13:13). Khi mở đầu Thánh Lễ, linh mục chủ tế lập lại lời chúc này. Lời chúc trên đây trình bày ý nghĩa minh nhiên về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta bắt đầu phần nghiên cứu điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô cho biết về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa trong hiệp nhất Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con. Giáo huấn trong Thư II gửi giáo đoàn Corinth có vẻ phát xuất từ ngôn ngữ của các cộng đồng Kitô đầu tiên, và cũng có thể từ phụng vụ của các cộng đoàn này. Thánh Tông Đồ mô tả việc hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi khởi đầu từ Chúa Kitô. Là Đấng đem lại ơn cứu chuộc, Chúa Kitô cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa Cha và gieo tình yêu này cho các tín hữu trong hiệp thông với Chúa Thánh Linh. Như thế, theo Thánh Phaolô, Chúa Thánh Linh là Ngôi Thiên Chúa đem lại việc hiệp thông của nhân loại - và của Giáo Hội - với Thiên Chúa.
Công thức của Thánh Phaolô nói rõ về Thiên Chúa duy nhất mà ba ngôi, mặc dầu cách trình bày khác với công thức Phép Rửa mà Thánh Matthêu đã tường thuật: “Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19). Lời Thánh Phaolô cho chúng ta biết Chúa Thánh Linh là Đấng mà ngài đã diễn giải trong giáo huấn của ngài và nhận thức được trong đời sống các cộng đồng Kitô hữu.
Giáo huấn sau đây của Thánh Phaolô dạy rằng Chúa Thánh Linh là nguồn đặc sủng được phân phát cách khác nhau và chung trong cộng đoàn: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Linh; có nhiều hình thức phục vụ khác nhau nhưng chỉ một Chúa; có nhiều hoạt động khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1 Cor 12:4-6). Thánh Tông Đồ qui kết việc ban ân sủng (charisms) cho Chúa Thánh Linh; tác vụ (ministeria) cho Chúa Con, là Chúa của Giáo Hội; và việc làm (working) cho Chúa Cha, Đấng tạo thành mọi sự trong mọi người.
Thể thức song song giữa Chúa Thánh Linh, Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha là con đường rất có ý nghĩa. Phương cách song song đó cho thấy Thánh Linh cũng được nhận biết là Ngôi Thiên Chúa. Hẳn không chính xác nếu đặt hai Ngôi, Cha và Con, trong cùng một câu với một vị thế vô ngã. Trường hợp cũng có ý nghĩa quan trọng như vậy là việc ban phát không (cho không) tất cả các đặc sủng (đoàn sủng) và mọi hồng ân Thiên Chúa cho nhân loại và cho Giáo Hội được đặc biệt quy kết cho Chúa Thánh Linh.
Tất cả những điều này được nhấn mạnh hơn nữa ở đoạn kế tiếp trong Thư I gửi giáo đoàn tại Corinth: “Cũng chính Thánh Linh duy nhất tạo thành và ban phát tất cả các ân sủng đó cho mỗi người một cách theo ý Ngài” (1 Cor 12:11). Như thế Chúa Thánh Linh được minh họa là Đấng tự do và tự ý ban phát ơn lành tùy nghi theo lãnh vực đặc sủng và hồng ân. Vì là một Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh chọn và ban phát mọi ân sủng khác nhau cho những người thụ hưởng. “Người này được Thánh Linh ban ơn diễn đạt khôn ngoan; người kia lại được ... ơn diễn giải tri thức” (1 Cor 12:8-9). Và tiếp nữa: “Ơn chữa lành ... ơn nói tiên tri ... ơn phân định thần khí ... ơn nói nhiều ngôn ngữ khác nhau và ơn giải thích các ngôn ngữ” (1 Cor 12:9-10). Lại nữa “Thánh Linh tỏ hiện cho mỗi người một cách vì lợi ích chung” (1 Cor 12:7). Bởi thế, Chúa Thánh Linh ban phát muôn vàn ân sủng của Chúa Ba Ngôi, cũng như sự hiệp nhất và đồng hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tất cả những sự kiện này cho thấy Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa đồng bản tính và hoạt động trong Thiên Chúa Hiệp Nhất, trong hiệp thông Chúa Con với Chúa Cha.
Những đoạn khác trong các thư Thánh Phaolô cũng diễn tả cùng một chân lý về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa trong hiệp nhất Tam Vị, mà chương trình cứu chuộc là khởi điểm. Trong Thư II gửi giáo đoàn tại Thessalonica (2 Thess 2:13-14) để nói cho các tín hữu biết mục đích của Phúc Âm ngài rao giảng, Thánh Tông Đồ Phaolô viết: “Nhưng chúng tôi phải luôn luôn cảm tạ Chúa thay cho anh chị em ... vì Thiên Chúa đã chọn anh chị em làm hoa trái đầu mùa của ơn cứu chuộc qua việc thanh tẩy bởi Thánh Linh và lòng tin vào chân lý ... để sở hữu vinh quang của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta.” Và gửi giáo đoàn tại Corinth: “Nhưng bây giờ anh chị em đã tắm gội; anh chị em đã được thánh hóa; anh chị em đã được nên công chính nhân danh Chúa Giêsu Kitô và trong Thánh Linh của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cor 6:11).
Theo Thánh Phaolô, Thiên Chúa Cha là đệ nhất nguyên lý việc (ơn) thánh hóa mà Chúa Thánh Linh ban cho những người tin “vào danh” Chúa Kitô. Vì thế việc thánh hóa sâu xa một người phát xuất từ Chúa Thánh Linh, một Ngôi Thiên Chúa hằng sống và hoạt động trong hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Con. Trong đoạn khác Thánh Phaolô diễn tả cũng ý niệm đó cách đáng chú ý: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh chị em trong Chúa Kitô và xức dầu chúng ta là Thiên Chúa; Ngài cũng đã đóng ấn trên chúng ta và ban Thánh Linh trong lòng chúng ta làm bảo chứng thứ nhất” (2 Cor 1:21-22). Những chữ “trong lòng chúng ta” cho thấy sự thân thiết của hành động thánh hóa của Chúa Thánh Linh.
Cũng chân lý này có thể thấy trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus dưới hình thức khai triển chi tiết hơn: “Thiên Chúa, Cha của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta ... đã chúc lành cho chúng ta trong Chúa Kitô với muôn vàn ân sủng thần linh từ trời, trong Chúa Kitô” (Eph 1:3). Sau đó một chút, Thánh Phaolô nói: “Anh chị em được niêm ấn bằng Chúa Thánh Linh như (Thiên Chúa) đã hứa, Chúa Thánh Linh là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Eph 1:13-14).
Một giải thích tuyệt vời khác về tư tưởng và ý định của Thánh Phaolô là đoạn trong Thư gửi giáo đoàn Roma. Mục đích tác vụ Phúc Âm của ngài trong thư này là “để Dân ngoại, được Chúa Thánh Linh thánh hóa, trở nên của lễ hiến dâng đáng được chấp nhận” (Rom 15:16). Thánh Phaolô yêu cầu các tín hữu tại cộng đoàn Roma cầu xin Thiên Chúa cho tác vụ này. Ngài làm việc này vì Chúa Kitô và vì “tình yêu mến Chúa Thánh Linh” (Rom 15:30). “Tình yêu” cũng như “việc hiệp thông” (tc. 2 Cor 13:13) là những đặc tính của Chúa Thánh Linh (tc. Rom 5:5). Từ tình yêu này phát xuất sự thánh thiện làm cho lễ phẩm đáng được chấp nhận. Đây cũng là một trong những công việc của Chúa Thánh Linh.
Theo Thư gửi giáo đoàn Galat, Chúa Thánh Linh ban cho người ta ơn được thừa nhận là con cái Thiên Chúa, sự kiện ấy dâng lên trong lòng người ta lời cầu nguyện của chính Chúa Con. “Làm bằng chứng anh chị em là con cái, Thiên Chúa đã phái Thánh Linh của Chúa Con vào trái tim (lòng) anh chị em, kêu lên, ‘Abba, Cha ơi!’” (Gal 4:6). Thánh Linh “kêu lên” và như thế cho biết chính Ngài là một Ngôi Thiên Chúa có thể tự mình diễn đạt cách rõ ràng. Chúa Thánh Linh làm cho trái tim người Kitô hữu vang lên lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu đã dâng lên Chúa Cha (tc. Mc 14:36) với tình yêu của con cái. Chúa Thánh Linh là Đấng làm cho chúng ta trở nên con cái được thừa nhận và cho chúng ta có thể dâng lên lời cầu nguyện của con cái.
Giáo huấn của Thánh Phaolô về đề tài này rất phong phú chúng ta cần bàn về giáo huấn này trong bài suy niệm kế tiếp. Bây giờ chúng ta có thể kết luận: trong các thư Thánh Phaolô, Chúa Thánh Linh được nhìn nhận là một Ngôi Thiên Chúa hiện hữu trong hiệp nhất Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Tông Đồ đặc biệt quy gán công việc thánh hóa cho Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là vị thầy trực tiếp thánh hóa các linh hồn. Ngài là nguồn tình yêu và lời cầu nguyện xin cho nhân loại “được nhìn nhận là con cái” Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngài nơi các linh hồn là lời đoan hứa và khởi đầu cuộc sống vĩnh cửu.
Buổi gặp chung ngày 1 tháng Mười, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Bài 53: Chúa Thánh Linh “Thấu Suốt Mọi sự”
Bài giáo lý trước trong các thư Thánh Phaolô cho chúng ta thấy mạc khải về Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa trong hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con được mô tả nhiều cách tuyệt vời và linh động. Hôm nay chúng ta tiếp tục học hỏi những điểm khác dựa trên đề tài căn bản mà chúng ta đã thấy trong các thư Thánh Phaolô. Những thư này thấm nhuần đức tin sống động vào Ngôi Ba Thiên Chúa và các hoạt động ban sự sống của Ngài.
Chúa Thánh Linh ở trong các tín hữu, những người là đền thờ của Ngài, là một trong những diễn tả tuyệt vời đáng chú ý nhất về đức tin dưới ngòi bút của Thánh Phaolô và trở nên việc truyền thông chân lý (được) mạc khải cho Giáo Hội. Thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu tại Corinth: “Anh chị em không biết anh chị em là đền thờ Thiên Chúa, và Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh chị em sao!” Thông thường chỉ có con người mới “cư ngụ.” Vấn đề ở đây là câu hỏi về “việc cư ngụ” của một Ngôi Thiên Chúa trong con người. Sự kiện này có bản chất thần thiêng, một ân sủng huyền nhiệm và tình yêu hằng hữu mà chính vì lý do này được quy kết cho Chúa Thánh Linh.
Nếu Chúa Thánh Linh cư ngụ trong người nào thì ảnh hưởng người đó, một ảnh hưởng vững chắc tổng quan trong người nam hay người nữ đó, mà nhiều lần Thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại như một “thân thể.” Cũng trong Thư I Corinth, sau đoạn này một chút, như thể ngài thúc giục những người đọc các thư của ngài cũng với câu hỏi: “Anh chị em không biết thân xác anh chị em là đền thờ Chúa Thánh Linh ở trong anh chị em, mà anh chị em nhận được từ Thiên Chúa, và anh chị em không phải là của riêng mình sao?” (1 Cor 6:19). Trong đoạn này lời nói về “thân xác” còn có ý nghĩa hơn nữa là cho thấy quan niệm của Thánh Phaolô đối với hoạt động của Chúa Thánh Linh nơi toàn thể con người!
Như thế chúng ta có thể giải thích và hiểu rõ hơn đoạn khác trong Thư gửi giáo đoàn Roma về “cuộc sống theo Thánh Linh.” Ngài nói: “Nhưng anh chị em không sống trong xác thịt; mà trái lại, anh chị em sống trong Thánh Linh, chỉ có Thánh Linh ngự trong anh chị em” (Rom 8:9). “Nếu Thánh Linh của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh chị em, thì Đấng làm cho Chúa Giêsu phục sinh sẽ ban sự sống cho thân xác phải chết của anh chị em, nhờ Thánh Linh của Ngài ngự trong anh chị em” (Rom 8:11).
Bởi thế, ảnh hưởng của việc Thánh Linh cư ngụ trong một người tỏa rộng khắp toàn thể con người đó. Việc Thánh Linh cư ngụ trong con người nới rộng tới toàn thể cuộc đời con người, toàn thể mọi yếu tố cấu tạo và các hành động của con người được đặt dưới hoạt động của Chúa Thánh Linh: Thánh Linh của Chúa Cha và Chúa Con, và vì thế cũng là của Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh chiếm hữu trọn vẹn cá nhân, cũng như toàn thể mọi người nhận biết và đón tiếp Ngài ngự trị.
Thánh Phaolô quy chiếu một đặc tính khác cho Ngôi Chúa Thánh Linh là đặc tính “thấu suốt (tìm kiếm)” mọi sự, như ngài viết cho giáo đoàn Corinth: “Vì Thánh Linh thấu suốt mọi sự, cả đến những sâu thẳm của Thiên Chúa” (1 Cor 2:10). “Ai biết những gì thuộc về một người ngoại trừ thần khí ở trong chính người đó? Cũng tương tự, không ai biết những gì thuộc về Thiên Chúa ngoại trừ Thánh Linh Thiên Chúa” (1 Cor 2:11).
“Sự thông suốt” này có nghĩa là một tri thức rõ ràng và sâu sắc về thiên tính trong đó Thánh Linh đồng hằng hữu với Chúa Con, Ngôi Lời, trong hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế Ngài là Thánh Linh sự sáng, thầy dạy chân lý cho nhân loại, như Chúa Giêsu Kitô đã hứa (tc. Jn 14:26).
Nhất là, giáo huấn của Thánh Phaolô liên quan đến những điều về Thiên Chúa, mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính Thiên Chúa, nhưng cũng liên quan đến những lời dạy dỗ và ân sủng của Ngài cho nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Chúng ta không nhận thần khí (tinh thần) thế gian nhưng đón nhận Thánh Linh từ Thiên Chúa, để chúng ta có thể hiểu những điều được Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta” (1 Cor 2:12). Giáo huấn trên đây là một quan điểm thần linh trong thế giới, cuộc đời và lịch sử, mà Chúa Thánh Linh ban cho các tín hữu. Giáo huấn trong I Cor 2:12 là một “tri thức tràn đầy lòng tin” giúp chúng ta có thể nhìn xa hơn những chiều kích thực tại hữu hình về con người và vũ trụ, hầu khám phá ra trong vạn vật sự hiện diện hoạt động cứu độ của Thiên Chúa, công việc của Đấng Quan Phòng và suy niệm về vinh quang Nhất Tam (Ba Ngôi mà Một Thiên Chúa) của Ngài.
Trong bài luân ca (ca tiếp liên) cổ xưa của Lễ Hiện Xuống, phụng vụ dạy chúng ta cầu xin: Veni, Sancte Spiritus, et emitte coelitus lucis tuae radium. “Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến, và từ ngai tòa thiên quốc của Chúa, xin chiếu rọi ánh sáng thần linh! Xin hãy đến, lạy Cha những kẻ khó nghèo! Xin hãy đến, nguồn mạch mọi kho tàng của chúng con! Xin hãy đến, chiếu soi lòng chúng con!”
Linh quang của Thánh Linh cũng ban đặc biệt cho các tông đồ và Giáo Hội khả năng giảng dạy những điều về Thiên Chúa và nới rộng cho mọi người. Chúng ta có thể nói về những điều Thiên Chúa ban “(nhưng) không” cho chúng ta, theo lời Thánh Phaolô: “không phải những lời giảng dạy do sự khôn ngoan của loài người, nhưng với những lời được Thánh Linh giảng dạy để mô tả các thực tại linh thiêng” (1 Cor 2:13). Những lời Thánh Tông Đồ, những lời của Giáo Hội từ sơ khai và qua mọi thời đại, những lời các nhà thần học và giáo lý gia chân thực, nói về sự khôn ngoan không phải của trần gian, mà về “sự khôn ngoan huyền nhiệm của Thiên Chúa, điều mà Thiên Chúa đã tiền định từ thuở đời đời để chúng ta được vinh hiển” (1 Cor 2:6-7).
Sự khôn ngoan này là ân sủng của Chúa Thánh Linh, mà chúng ta cần phải nài xin Ngài ban cho các thầy dạy và nhà giảng thuyết thuộc mọi thời đại. Sự khôn ngoan giảng dạy là ơn mà Thánh Phaolô nói tới cũng trong Thư gửi giáo đoàn Corinth: “Người này được Thánh Linh ban ơn khôn ngoan để giảng dạy, người khác cũng được cùng một Thánh Linh ban ơn diễn tả điều hiểu biết” (1 Cor 12:8). Tất cả đều là ơn Chúa Thánh Linh: khôn ngoan, hiểu biết, khả năng diễn tả làm rúng động tâm hồn, một linh quang nội tâm mà, do việc rao giảng chân lý thần linh, ảnh hưởng tới người hiền lành và lo lắng cho vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Linh Đấng “thấu suốt mọi sự, cả đến những thẳm sâu của Thiên Chúa” và “dạy” sự khôn ngoan thần linh cũng là Đấng “hướng dẫn.” Trong Thư gửi giáo đoàn Roma, Thánh Phaolô nói: “Những ai được Thánh Linh Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rom 8:14). Ở đây chúng ta nhận thức được hướng dẫn nội tâm mà hướng dẫn ấy đề cập tới căn để của việc tạo dựng mới. Chúa Thánh Linh làm cho chúng ta sống cuộc đời được thừa nhận là con cái Thiên Chúa. Để sống như thế, thần trí chúng ta cần phải nhận biết việc được thần linh thừa nhận này. “Chính Thánh Linh làm chứng cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rom 8:16). Việc Chúa Thánh Linh đích thân làm chứng tuyệt đối cần thiết để trong cuộc đời chúng ta sống theo mầu nhiệm mà chính Thiên Chúa đã an bài.
Theo lời Thánh Phaolô, đây là cách Chúa Thánh Linh đến giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta, đặc biệt là trong lời cầu nguyện. Ngài viết, dĩ nhiên: “Thánh Linh đến giúp đỡ sự yếu hèn của chúng ta, vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng, như chính Thánh Linh cầu bầu cho chúng ta bằng những tiếng thở dài khôn tả” (Rom 8:26). Vì thế đối với Thánh Phaolô, Thánh Linh là tác giả nội tâm của lời cầu nguyện đích thực. Do ảnh hưởng thần linh của Ngài, Chúa Thánh Linh thấm sâu vào lời chúng ta, cầu nguyện từ đáy lòng, và đem lời cầu nguyện của chúng ta vào lòng Thiên Chúa.
Trong chừng mực nào đó, lời diễn tả sâu sắc của Thánh Phaolô (Rom 5:3) bao gồm và tổng hợp tất cả mọi điều mà từ trước tới nay chúng ta đã đề cập tới chủ điểm của đề tài này. “Tình yêu của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Linh Đấng đã được ban cho chúng ta”. Vì thế Chúa Thánh Linh là Đấng tuôn đổ tình yêu của Thiên Chúa vào trái tim chúng ta tới mức độ mênh mông, và làm cho chúng ta có thể trở nên những người chia sẻ tình yêu đó.
Qua ngôn ngữ trong những lời trình bày mà chúng ta vẫn thường nghe của vị Tông Đồ Dân Ngoại, khiến chúng ta hiểu rõ hơn hoạt động của Chúa Thánh Linh và Ngôi Vị của Đấng hoạt động cách thần linh trong chúng ta.
Buổi gặp chung ngày 10 tháng Mười, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
54. Gió và Lửa là Biểu Tượng của Chúa Thánh Linh
Tân Ước cho chúng ta biết Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con trong hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng mạc khải đó không có những chi tiết minh họa rõ ràng, như mạc khải về (Ngôi) Chúa Cha và (Ngôi) Chúa Con. Lời ngôn sứ Isaiah nói Chúa chúng ta là “Thiên Chúa ẩn hình” (Is 45:15) có thể được coi là dẫn chiếu đặc biệt về Chúa Thánh Linh. Do việc trở nên người phàm, Chúa Con trở nên hữu hình mà người ta cảm nghiệm được, người ta có thể nhìn tận mắt Ngôi Lời Hằng Hữu và tay của họ có thể đụng chạm vào Ngài (tc. 1 Jn 1:1). Việc làm chứng của những người đó cũng là những bằng chứng vững chắc cho các thế hệ Kitô hữu sau này. Chúa Cha hiển lộ trong Chúa Con trong khi vẫn vô hình và trong siêu việt tính khôn tả. Chúa Giêsu nói: “Người nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Jn 14:9). Hơn nữa, như lời Thánh Phaolô (Eph 3:15), nhờ tính cách tương tự, mặc dầu không hoàn hảo, trong cương vị làm cha của nhân loại, chúng ta có thể hiểu tạm đủ “cương vị làm cha” trong lãnh vực thần linh của cương vị phụ thân hằng tự hữu.
Trái lại, Ngôi Chúa Thánh Linh sâu xa hơn vượt ra ngoài nhận thức của chúng ta. Đối với chúng ta Ngôi Ba là Thiên Chúa ẩn dật vô hình. Sở dĩ chúng ta chỉ biết Chúa Thánh Linh đến được như thế là vì những loại suy trong tri thức nhân loại liên quan đến Ngài thì quá hạn hẹp. Chúng ta không thể hiểu căn nguyên tại sao tình yêu lại tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta mà tình yêu đó vốn là phản ảnh Tình Yêu tự hữu, là hành động tự tri của chính Thiên Chúa. Và như Thánh Thomas đã ghi nhận: từ đây phát xuất mầu nhiệm tình yêu trên bình diện tâm lý và thần học, (tc. Summa Theol., I, q. 27, a. 4; q. 36, a. 1; q. 37, a. 1). Dùng cách so sánh việc biểu lộ tình yêu của nhân loại với nhau, chúng ta có thể hiểu Chúa Thánh Linh dùng những hành động biểu tượng để minh họa năng động tính tự hữu và Ngôi Vị Thiên Chúa của Ngài.
Như thế gió chính là biểu tượng mà con người cảm nhận được khi Chúa Thánh Linh hiện xuống, một biến cố căn bản trong mạc khải về Chúa Thánh Linh: “Và bất thình lình từ trời cao đến một tiếng động tựa cơn gió mạnh, và tràn ngập khắp ngôi nhà nơi các ngài tụ họp (cùng với Đức Maria)” (Cv 2:2).
Trong các văn bản Phúc Âm và các văn bản khác nữa, gió thường được mô tả như một người đến và đi. Chúa Giêsu dùng thí dụ gió để nói về Ngôi Chúa Thánh Linh và Ngài bàn luận (về gió) theo cách thức này trong cuộc đàm thoại với ông Nicodemus: “Gió muốn thổi đi đâu thì thổi và người ta có thể nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và đi đâu, và người nào bởi Thánh Linh sinh ra cũng vậy” (Jn 3:8). Chúng ta được thừa nhận là con cái Thiên Chúa, tức là “sinh ra bởi Thánh Linh,” mà hành động của Chúa Thánh Linh được so sánh với gió. Chúa Giêsu dùng biểu tượng này để làm nổi bật toàn thể tính cách tự phát về lòng nhân từ và hành động của Chúa Thánh Linh, nhờ đó chúng ta được làm cho trở nên những người thông phần trong sự sống Thiên Chúa. Dường như biểu tượng gió tạo ra năng động tính siêu nhiên đặc biệt mà qua đó chính Thiên Chúa đến gần chúng ta để biến đổi nội tâm chúng ta, thánh hóa và, theo một ý nghĩa nào đó, như lời các thánh Giáo Phụ, để thần linh hóa chúng ta.
Chúng ta cần phải ghi nhận thêm: về phương diện từ nguyên và ngữ học, gió là biểu tượng liên kết mật thiết nhất với Thánh Linh. Chúng ta đã từng lưu ý điểm này trong các bài giáo lý trước. Ở đây chúng ta chỉ cần nhắc lại ý nghĩa của từ (ngữ) ruah (đã có trong Sáng Thế Ký 1:2), tức là “hơi thở.” Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, “Ngài hà hơi (thở hơi) vào” các ông và nói “Anh em hãy đón nhận Chúa Thánh Linh” (Jn 20:22-23).
Chúng ta cũng cần ghi nhận thêm biểu tượng gió, như một dẫn chiếu rõ ràng về Chúa Thánh Linh và hoạt động của Ngài, thuộc về ngôn ngữ và giáo thuyết của Tân Ước. Trong Cựu Ước, “gió lốc” diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (tc. Ez 13:13), trong khi “gió rì rào” nói về bản chất thân mật của những lời Ngài nói với các ngôn sứ (tc. 1 Vua 19:12).
Cũng từ ngữ “gió” được dùng để chỉ hơi thở, một biểu tượng quyền năng Thiên Chúa phục hồi sự sống các bộ khô cốt trong lời tiên tri của ngôn sứ Ezekiel: “Hỡi Thần Khí, gió từ bốn hướng, hãy tới và hà hơi (thổi hơi) vào những người bị giết chết này để chúng được hồi sinh” (Ez 37:9). Trong Tân Ước gió trở nên biểu tượng minh họa hành động và sự hiện diện của Chúa Thánh Linh.
Theo các Phúc Âm Nhất Lãm và Phúc Âm theo Thánh Gioan, một biểu tượng khác là “chim bồ câu” được mô tả khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Jordan. Biểu tượng này thích hợp hơn biểu tượng gió khi nói về Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh, vì chim bồ câu là một sinh vật, trong khi gió chỉ là một hiện tượng thiên nhiên. Các thánh sử nói về chim bồ câu cùng một cách như nhau. Thánh Matthêu viết (3:16): “Các tầng trời mở ra và Ngài thấy Thánh Linh Thiên Chúa ngự xuống tựa như một chim bồ câu đậu trên Ngài (tức là trên Chúa Giêsu). Thánh Marcô (1:10), Luca (3:21-22) và Gioan (1:32) viết cùng một cách tương tự. Vì tầm quan trọng của biến cố này trong cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng nhận cách hữu hình “việc tấn phong làm thiên sai,” biểu tượng chim bồ câu, biểu tượng mầu nhiệm, hành động và Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh, được ghi khắc qua nghệ thuật và những cách mô tả bằng hình ảnh thánh.
Trong Cựu Ước, chim bồ câu là thông tín viên loan báo việc Thiên Chúa làm hòa với nhân loại trong thời ông Noe (Noah). Chim bồ câu đem tới cho vị tổ phụ tin tức về nước lụt rút hết khỏi mặt đất (tc. St 8:9-11).
Trong Tân Ước việc Thiên Chúa làm hòa với nhân loại qua Phép Rửa, mà Thánh Phêrô nói tới trong Thư I của ngài khi so sánh Phép Rửa với việc “người ta ... được cứu khỏi nước” trong tàu ông Noe (Noah) (1 Pet 3:20-21). Vì thế, chúng ta có thể thấy đây là cảm nghiệm trước biểu tượng về Chúa Thánh Linh. Thánh Phaolô nói (Rom 5:5): Chúa Thánh Linh, Đấng là Tình Yêu, “tuôn đổ tình yêu này vào trái tim nhân loại,” cũng là Đấng ban hòa bình, hồng ân Thiên Chúa.
Thêm nữa, hành động và Ngôi Vị Thiên Chúa của Chúa Thánh Linh cũng được nói đến bằng biểu tượng lửa. Chúng ta biết ông Gioan Tẩy Giả loan báo tại sông Jordan: “Ngài (Chúa Kitô) sẽ rửa anh chị em bằng Thánh Linh và lửa” (Mt 3:11). Lửa là nguồn sức nóng ấm và ánh sáng, nhưng lửa cũng là sức mạnh hủy diệt. Vì lý do này các Sách Phúc Âm nói tới “ném vào lửa” cây nào không sinh hoa trái (Mt 3:10; tc. Jn 15:6); và “trấu đốt trong lửa không hề tắt” (Mt 3:12). Phép Rửa “trong Chúa Thánh Linh và lửa” cho thấy sức thanh tẩy của lửa. Đây là lửa huyền nhiệm mô tả đòi hỏi sự thánh thiện và thanh sạch mà Thánh Linh Thiên Chúa là quản chủ.
Chính Chúa Giêsu nói: “Thầy tới đem lửa xuống thế gian và hết lòng mong mỏi cho lửa đó cháy bừng lên!” (Lc 12:49). Nối tiếp theo ý này, chúng ta bàn về lửa yêu thương của Thiên Chúa “đã được trút vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Linh” (Rom 5:5). Vào ngày Lễ Hiện Xuống “những lưỡi lửa” xuất hiện trên đầu các tông đồ, những lưỡi lửa đó có nghĩa là Chúa Thánh Linh đã đem tới ơn tham dự vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Thomas nói lửa tình yêu, lửa mà Chúa Giêsu đã đem xuống thế gian, là “một thứ tham dự vào Chúa Thánh Linh” (participatio quaedam Spiritus Sancti; Summa Theol., II-II, q. 23, a. 3, ad 3). Theo nghĩa này lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Linh mà Ngôi Vị của Ngài trong Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu.
Buổi gặp chung ngày 17 tháng Mười, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Xức Dầu Là Biểu Tượng Phúc Âm về Thánh Linh
Trong lần giảng dạy tại hội đường ở Nazareth lúc khởi đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu áp dụng cho chính Ngài lời ngôn sứ Isaiah: “Thánh Linh (của) Chúa ngự trên Tôi vì Ngài đã xức dầu cho Tôi” (Is 61:1; tc. Lc 4:18). Xức dầu là một biểu tượng khác được chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước với ý nghĩa chính xác (hơn) và mới hơn. Biểu tượng này cũng xảy ra cùng với những biểu tượng: gió, chim bồ câu và lửa; mà chúng ta đã thấy những biểu tượng này nói tới hành động và Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh trong bài giáo lý mới đây. Việc xức dầu cũng thuộc về truyền thống Cựu Ước. Trước nhất được xức dầu tấn phong là các vua, kế đến là các tư tế và đôi khi cả các ngôn sứ nữa. Biểu tượng xức dầu tiêu biểu cho sức mạnh cần thiết để thi hành chức vụ. Trong sách ngôn sứ Isaiah viết như sau: “việc thánh hiến qua hành động xức dầu” nói đến sức mạnh tinh thần cần thiết để thể hiện sứ mệnh Thiên Chúa trao cho một người Ngài đã chọn và phái đi. Chúa Giêsu cho chúng ta biết người được Thiên Chúa chọn này là chính Ngài, Đấng Thiên Sai. Tính cách sung mãn của sức mạnh được trao cho Ngài – tính cách dư đầy (ơn) Chúa Thánh Linh – thuộc về Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai, tức là Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa.
Trong Công Vụ Tông Đồ, Thánh Phêrô nhắc lại: “Thiên Chúa đã dùng Thánh Linh và quyền năng mà xức dầu Chúa Giêsu Nazareth; Ngài đi khắp nơi ban mọi ơn lành và chữa lành tất cả mọi người bị ma quỉ áp bức” (Cv 10:38). Như dầu thấm vào gỗ hoặc thứ vật liệu khác, nên Chúa Thánh Linh cũng thấm sâu vào toàn thể con người Đấng Thiên Sai Giêsu, ban cho Ngài quyền năng cứu độ để chữa lành thân xác và linh hồn cho mọi người. Qua việc xức dầu này bằng Chúa Thánh Linh, Chúa Cha đã thể hiện việc thánh hiến Chúa Con làm Đấng Thiên Sai.
Việc tham dự xức dầu trong Chúa Thánh Linh của nhân tính Chúa Kitô được chuyển trao cho tất cả mọi người tin yêu chấp nhận Ngài. Việc xức dầu trong Chúa Thánh Linh xảy ra nơi các nhiệm tích có nghi lễ xức dầu; nghi lễ xức dầu là phần không thể thiếu trong phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt là trong Phép Rửa và Thêm Sức. Thánh Gioan viết trong Thư I của ngài: những tín hữu lãnh nhận Phép Rửa và Thêm Sức “được Đấng Thánh xức dầu” và dầu xức đó sẽ “ở lại” trong họ mãi mãi (1 Jn 2:20, 27). Việc xức dầu Thánh Linh là nguồn mọi hiểu biết: “Anh chị em được Đấng Thánh xức dầu và tất cả anh chị em đều được ơn hiểu biết” (1 Jn 2:20), để “anh chị em không cần người nào khác chỉ dạy anh chị em ... vì việc xức dầu của Ngài chỉ dạy anh chị em mọi sự” (1 Jn 2:27). Theo thể cách này, lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được trọn vẹn: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh đến trên anh em và anh em sẽ làm chứng cho Thầy” (Cv 1:8).
Nguồn mạch tri thức trong Chúa Thánh Linh là sức mạnh cần thiết để làm chứng chân lý thần linh. Theo Công Đồng Vatican II (LG 12), Thánh Linh cũng là nguồn mạch “cảm thức đức tin”, là sản nghiệp thừa hưởng siêu nhiên của dân Thiên Chúa, như lời Thánh Gioan: “Tất cả anh chị em mọi người đã nhận được ơn tri thức” (1 Jn 2:20).
Biểu tượng nước cũng thường xuất hiện trong Cựu Ước. Nói cách tổng quát, nước tiêu biểu sự sống được Thiên Chúa ban dư đầy trên mọi tạo vật và con người. Chúng ta đọc trong Sách Ngôn Sứ Isaiah: “Ta sẽ làm cho các sông ngòi chảy tràn những đồi trọc, và khe suối nơi những thung lũng bao la; Ta sẽ biến đổi sa mạc thành đất sũng nước và đất khô cằn sẽ trở thành những suối nước” (Is 41:18). Đây là một dẫn chiếu về tính chất của nước ban sự sống. Vị ngôn sứ áp dụng biểu tượng này vào Thánh Linh Thiên Chúa, đặt nước và Thánh Linh Thiên Chúa trong tương quan song hành khi loan báo lời tiên tri này: “Ta sẽ tuôn đổ nước tràn nơi đất nứt nẻ và suối chảy tràn nơi đất khô cằn; Ta sẽ tuôn đổ Thánh Linh của Ta trên con cháu các ngươi ... chúng sẽ lớn lên giữa đồng cỏ bên dòng nước chảy ...” (Is 44:3-4). Tính chất của nước đem lại sự sống tiêu biểu tính chất ban sự sống của Chúa Thánh Linh.
Thêm nữa, nước làm cho đất khỏi hạn hán (tc. I Vua 18:41-45). Nước cũng làm cho người ta và các sinh vật hết khát (tc. Is 43:20). Khát khao Thiên Chúa ví như khát nước, chúng ta đọc trong Thánh Vịnh: “Như con nai khát nước mong tìm dòng suối chảy, hồn con khao khát tìm kiếm Ngài, Thiên Chúa của con. Hồn con khao khát Thiên Chúa, Thiên Chúa Hằng Sống; khi nào con mới được diện kiến Ngài?” (Tv 42:2-3; một đoạn khác không kém tha thiết là Tv 63:2).
Sau cùng, nước là biểu tượng sự thanh tẩy, như chúng ta đọc trong sách ngôn sứ Ezekiel: “Ta sẽ rảy nước tinh khiết trên các ngươi để thanh tẩy các ngươi khỏi mọi tì ố, và Ta sẽ tẩy sạch các ngươi khỏi mọi tà thần” (Ez 36:25). Cũng ngôn sứ Ezekiel loan báo khả năng ban sự sống của nước trong một thị kiến linh hoạt: “Kế đến ngài đưa tôi trở lại nơi cửa ra vào đền thờ và tôi thấy nước tràn ra từ phía dưới thềm cửa đền thờ chảy về hướng đông ... Ngài bảo tôi: ‘Đây là nước chảy vào miền đông xuống tới Arabah, và trút cạn ra biển, nước mặn được làm thành nước ngọt. Nước chảy tới đâu, mọi loài sinh vật sinh sôi nảy nở và sống ...” (Ez 47:1,8-9).
Trong Tân Ước sức mạnh thanh tẩy và ban sự sống của nước dùng làm nghi thức phép rửa đã được Thánh Gioan (Tẩy Giả) thực hành, ngài làm phép rửa để ăn năn thống hối ở sông Jordan (tc. Jn 1:33). Nhưng chính Chúa Giêsu cho thấy nước là biểu tượng của Chúa Thánh Linh khi mà vào một dịp lễ Ngài lớn tiếng nói với đám đông: “Hỡi ai khát hãy đến với Tôi mà uống. Ai tin Tôi, thì như lời Sách Thánh nói: ‘Những dòng nước hằng sống sẽ tuôn tràn từ nơi Ngài.’” Và thánh sử bình luận: “Ngài nói điều này về Chúa Thánh Linh mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận; dĩ nhiên, họ chưa nhận được Thánh Linh vì Chúa Giêsu chưa được tôn vinh” (Jn 7:37-39).
Những lời này cũng giải thích tất cả mọi điều Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samaria về nước hằng sống, thứ nước mà chính Ngài sẽ ban cho. Nơi con người nước này trở nên “một nguồn nước trào lên (tới) sự sống đời đời” (Jn 4:10,14).
Đây là những cách diễn tả chân lý Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Thánh Linh, mà “nước hằng sống” là biểu tượng của Ngài. Trong Phép Rửa, điều này trở nên thực tại của việc được sinh ra bởi Chúa Thánh Linh. Ở đây nhiều đoạn khác trong Cựu Ước cũng quy lại với nhau, chẳng hạn như đoạn nói về nước mà ông Moses đã làm cho chảy ra từ tảng đá theo lệnh Thiên Chúa, (tc. Sh 17:5-7; Tv 78:16), và đoạn văn khác về suối nguồn được ban cho nhà David để tẩy sạch mọi tội lỗi và tì ố (tc. Zech 13:1; 14:8). Đoạn văn nổi bật nhất trong Sách Khải Huyền liên quan tới những dòng nước hằng sống trong vắt như pha lê tuôn chảy ra từ ngai tòa Thiên Chúa và Con Chiên. Ở giữa công viên thành phố và hai bên bờ sông có Cây Hằng Sống; lá cây đó dùng để chữa lành muôn dân (tc. Kh 22:1-2). Theo các nhà chú giải, nước hằng sống và ban sự sống tiêu biểu Chúa Thánh Linh, như Thánh Gioan đã nhiều lần nói trong Phúc Âm (tc. Jn 4:10-14; 7:37-38). Theo linh thị này trong Sách Khải Huyền, chúng ta thoáng thấy Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự chữa lành muôn dân theo dẫn chiếu cũng mang ý nghĩa rất đặc biệt. Vì sự chữa lành này thực hiện qua lá cây sự sống, mà cây này được tưới nước Thánh Linh hằng sống tinh tuyền.
Cũng như dân Israel trong sa mạc, theo lời Thánh Phaolô, dân Thiên Chúa “uống nước thiêng liêng này ... từ tảng đá là Chúa Kitô” (1 Cor 10:1-4). Từ cạnh sườn Ngài bị đâm thủng trên thánh giá “máu và nước chảy ra” (Jn 19:34), là dấu chỉ kết quả đem lại ơn cứu độ do cuộc tử nạn Chúa Cứu Thế đã chịu để cứu chuộc thế gian. Kết quả cuộc tử nạn cứu độ này là hồng ân Chúa Thánh Linh, mà Chúa Cứu Thế ban dồi dào cho Giáo Hội của Ngài.
Thật vậy “những suối nguồn nước hằng sống chảy tràn từ (bên trong)” mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô trở nên “một nguồn nước phun trào lên tới sự sống đời đời” trong linh hồn con người (Jn 4:14) là ân sủng từ Chúa Thánh Linh. Nhờ những lời Chúa Kitô và các tông đồ, chúng ta dễ dàng nhận ra Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Buổi gặp chung ngày 24 tháng Mười, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh theo Kinh Tin Kính
“Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, là Đấng Ban Sự Sống, Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Ngài đã dùng các ngôn sứ (tiên tri) mà phán dạy.” Bằng những lời trên đây, kinh Tin Kính Công Đồng Nicene-Constantinopolitan minh định đức tin của Giáo Hội về Chúa Thánh Linh, Đấng được nhìn nhận là Thiên Chúa thật, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, trong hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa. Tín điều này được Công Đồng Constantinople I (381) minh định, dựa trên bản văn trước là kinh Tin Kính Nicene (theo Công Đồng Nicaea (325) (tc. DS 150).
Trong phụng vụ, Giáo Hội nhắc đi nhắc lại tín điều Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa, nên không những chỉ là lời tuyên xưng mà còn là lời chứng đức tin. Chẳng hạn trong vinh tụng ca Thiên Chúa Ba Ngôi (kinh Sáng Danh), theo luật, kinh này kết thúc phần cầu nguyện phụng vụ: “Sáng danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh.” Như thế vinh tụng ca là những lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha: “nhờ Chúa Kitô Chúa chúng con, Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha trong hiệp nhất với Chúa Thánh Linh, Thiên Chúa hằng hữu đời đời.”
Ca từ “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời” cũng bao gồm cấu trúc Tam Vị. Kinh Vinh Danh giúp chúng ta tôn vinh Thiên Chúa Cha và Chúa Con, cùng với Chúa Thánh Linh: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao, cùng với Chúa Thánh Linh, trong vinh quang Chúa Cha.”
Đức tin của Giáo Hội có cội nguồn bản thể trong mạc khải Thiên Chúa. Thiên Chúa dứt khoát mạc khải chính Ngài là Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con đồng bản tính, là Đấng do quyền năng Chúa Thánh Linh đã làm người và sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria. Chúa Thánh Linh được mạc khải qua Chúa Con. Thiên Chúa duy nhất tự khải là Thiên Chúa Ba Ngôi: (Chúa) Cha, (Chúa) Con và (Chúa) Thánh Linh. Lời cuối cùng của Chúa Con, Đấng đã được Chúa Cha phái đến thế gian, là ủy thác cho các tông đồ việc “giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19). Chúng ta đã thấy trong các bài giáo lý trước những tiêu biểu về mạc khải liên quan tới Chúa Thánh Linh và Thiên Chúa Ba Ngôi trong những giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu Kitô mạc khải Chúa Thánh Linh trong khi Ngài thi hành sứ mệnh thiên sai. Chúa Giêsu tuyên bố Ngài làm việc “với quyền năng của Chúa Thánh Linh” (chẳng hạn, khi trừ quỉ: tc. Mt 12:28). Nhưng chúng ta có thể nói mạc khải đó tập trung súc tích trong phần kết thúc sứ mệnh của Ngài bằng lời loan báo về việc Ngài trở về với Chúa Cha. Sau khi Chúa Giêsu ra đi, Chúa Thánh Linh sẽ là “Đấng Phù Trợ mới.” Chính Ngài, “Thánh Linh chân ly,” hướng dẫn các tông đồ và Giáo Hội suốt lịch sử: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác ở với anh em luôn mãi, Thánh Linh chân lý, Đấng mà thế gian không thể chấp nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Ngài” (Jn 14:16-17). Chúa Thánh Linh, Đấng sẽ từ Chúa Cha mà đến nhân danh Chúa Kitô, “sẽ dạy anh em mọi điều và nhắc anh em nhớ lại những điều Thầy đã dạy anh em” (Jn 14:26). Lại nữa: “Khi Ngài đến, Ngài sẽ lên án thế gian về tội lỗi, về công lý và việc xét xử” (Jn 16:8). Đây là lời hứa xác đáng. Chúng ta có thể nói đây là di chúc, song song với những di chúc về tình yêu và Phép Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ trong Tiệc Ly.
Sau khi Chúa Kitô chịu khổ nạn cứu độ, phục sinh và lên trời, Lễ Hiện Xuống hoàn thành lời Ngài loan báo với các tông đồ và là lúc khởi đầu hoạt động của Chúa Thánh Linh giữa các thế hệ suốt mọi thời đại mai hậu, vì Chúa Thánh Linh “đời đời” ở với Giáo Hội (Jn 14:16). Chúng ta đã nói nhiều về đề tài này trong các bài giáo lý trước.
Nguyên ủy nền tảng về nguồn gốc Giáo Hội trong Công Vụ Tông Đồ cho biết các tông đồ “được tràn đầy Chúa Thánh Linh” và “hiên ngang loan báo lời Thiên Chúa” (Cv 2:4; 4:31). Công Vụ Tông Đồ cũng cho biết từ thời các tông đồ “thế giới” đã chống lại không phải chỉ hành động của các tông đồ, mà còn phản đối hành động của Đấng Vô Hình hoạt động qua các ngài, như được thấy trong việc các ngài lên án những kẻ áp bức: “Các ngươi luôn luôn chống lại Chúa Thánh Linh” (Cv 7:51). Việc đó cũng thường xảy ra trong những thời đại lịch sử kế tiếp. Việc chống đối Đấng vô hình hoạt động nơi các tông đồ có thể lên tới mức độ trọng tội: tội “xúc phạm Chúa Thánh Linh.” Chính Chúa Giêsu nói thêm đây là tội sẽ không được tha thứ (tc. Mt 12:31; Lc 12:10).
Chúa Giêsu hứa Chúa Thánh Linh là Đấng ban phát mọi ân sủng Thiên Chúa trong Giáo Hội từ khởi đầu và tiếp tục suốt mọi thế hệ (dator munerum, như chúng ta gọi Ngài trong Bài Ca Tiếp Liên Lễ Hiện Xuống). Chúa Thánh Linh là Đấng hướng dẫn những ân sủng ban trực tiếp cho việc thánh hóa cá nhân và những ơn ban cho một số người vì lợi ích cho người khác (như trường hợp một số đặc sủng). “Nhưng Thánh Linh là Đấng duy nhất ban mọi ơn này, phân phát từng ơn đó cho mỗi người một cách theo ý Ngài” (1 Cor 12:11). Chúa Thánh Linh ban cả “những ân sủng phẩm trật,” Công Đồng Vatican II (LG 4) gọi các ơn đó là những ơn cần thiết cho việc hướng dẫn Giáo Hội (tc. Cv 20:28).
Dựa trên căn bản những điều Chúa Giêsu mạc khải và các thánh tông đồ truyền lại, kinh Tin Kính tuyên xưng lòng tin vào Chúa Thánh Linh là “Thiên Chúa,” Ngôi Lời Đấng mặc thân xác loài người là Thiên Chúa: “Chỉ có Chúa là Chúa ... cùng với Chúa Thánh Linh.” Kinh Tin Kính cũng minh xác thêm rằng Chúa Thánh Linh ban sự sống. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống cho nhân loại. Vậy Chúa Thánh Linh là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa, nên Chúa Thánh Linh là tác giả sự sống nhân loại. Ngài là tác giả sự sống mới và vĩnh cửu mà Chúa Giêsu đem lại, nhưng cũng là tác giả mọi hình thức sự sống: sự sống nhân loại và sự sống của mọi loài (Creator Spiritus).
Chân lý này của đức tin được hình thành trong kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan. Chúng ta hiểu và chấp nhận chân lý này là do Thiên Chúa mạc khải qua Chúa Giêsu Kitô và thuộc sở hữu của “kho tàng mạc khải”, mà các thánh tông đồ trao lại cho các cộng đồng tiên khởi, và từ đó chân lý này được trao truyền lại qua giáo huấn liên tiếp của các Giáo Phụ. Theo lịch sử, chúng ta có thể nói Công Đồng Constantinople I đã thêm đề tài đức tin này vào kinh Tin Kính Nicene. Đề tài đức tin này đã phải đương đầu với một số người chối bỏ thiên tính của Chúa Thánh Linh, cũng như những người khác, đặc biệt là những người theo phái Arian, chống lại thiên tính của Chúa Kitô là Chúa Con là Ngôi Lời. Cả hai trường hợp trên những người đó hầu như tâm trí không bình thường vì chủ nghĩa duy lý kiêu căng của họ trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi!
Những người chống đối thiên tính của Chúa Thánh Linh mệnh danh là “pneumatomachians = những người phủ nhận thiên tính của Chúa Thánh Linh”, hoặc “Macedonians” (do tên của thủ lãnh những người này là Macedonius). Các vị đại Giáo Phụ chống lại những ý kiến sai lầm này, trong số đó là Thánh Athanasius (+373), đặc biệt là trong thư ngài gửi cho Serapion (1, 28-30) minh xác tính cách đồng vị của Chúa Thánh Linh với Chúa Cha và Chúa Con trong hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài minh chứng tính cách đồng vị này căn cứ vào “truyền thống cổ xưa, tín lý của Giáo Hội Công Giáo, mà chúng ta hiểu là đã được Chúa ban cho chúng ta, các tông đồ rao giảng và các Giáo Phụ bênh vực ...” (tc. PG 26,594-595).
Các Giáo Phụ đánh giá mạc khải tích chứa trong Sách Thánh theo tính cách sung mãn và ý nghĩa trọn vẹn của mạc khải, các ngài không những chỉ bênh vực chân lý và quan niệm trọn vẹn về Thiên Chúa Ba Ngôi, mà còn ghi chú thêm rằng nếu chối bỏ thiên tính của Chúa Thánh Linh, thì cũng cần phải loại bỏ việc “thiên chúa hóa (thần linh hóa = divinization)” con người nhờ ân sủng - tức là nhân tính được nâng lên chia sẻ đời sống Thiên Chúa. Theo Phúc Âm, “thiên chúa hóa con người” cũng là công việc của Chúa Thánh Linh, vì chỉ có Đấng là Thiên Chúa mới có thể đem lại sự chia sẻ sự sống thần linh. Và theo lời Chúa Giêsu (tc. Jn 6:63) thì chính Chúa Thánh Linh là Đấng “ban sự sống.”
Chúng ta phải thêm rằng lòng tin vào Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa, như kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan tuyên xưng, đã được Huấn Quyền của Giáo Hội nhiều lần long trọng minh xác. Chẳng hạn, các quy điển của Công Nghị Roma năm 382 là một bằng chứng về điều này. Đức Giáo Hoàng Damasus I phổ biến những quy điển đó: Chúa Thánh Linh “đồng bản tính và đích thực là Thiên Chúa,” và “như Chúa Con và Chúa Cha, Chúa Thánh Linh cũng có thể làm mọi sự, biết mọi sự và hiện diện khắp mọi nơi” (DS 168-169).
Hình thức ngắn gọn súc tích của kinh Tin Kính năm 381 nói về thiên tính của Chúa Thánh Linh: “Ngài là Thiên Chúa” như Chúa Cha và Chúa Con là Thiên Chúa, và thêm vào cách hợp lý: “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con.” Chúa Thánh Linh là “Đấng ban sự sống.” Tức là, cùng với Chúa Cha và Chúa Con Ngài sở đắc quyền năng tạo dựng, đặc biệt là quyền năng thánh hóa và ban sự sống trong trật tự ân sủng siêu nhiên. Quyền này được quy chiếu cho Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh. Điều chính đáng là Chúa Thánh Linh được phụng thờ và tôn vinh như Chúa Cha và Chúa Con, Chúa Thánh Linh từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra là tận điểm tình yêu hằng hữu của Chúa Cha và Chúa Con, trong bản tính bình đẳng và hiệp nhất tuyệt hảo.
Kinh Tinh Kính còn đặc biệt quy chiếu cho Ngôi Ba của Chúa Ba Ngôi vai trò tác giả thần linh các lời tiên tri. Ngài là Đấng “đã dùng các tiên tri mà phán dạy.” Như thế nguồn gốc ơn linh ứng của các ngôn sứ thuộc Cựu Ước được nhìn nhận, khởi đầu từ ông Moses (tc. Tl 34:10) và kéo dài qua ngôn sứ Malachi. Các vị này để lại cho chúng ta những điều Thiên Chúa chỉ dạy được viết thành văn. Chúa Thánh Linh linh ứng các ngôn sứ. Vua David, ngài cũng là một “ngôn sứ” (Cv 2:30), đã nói điều đó về chính ngài (2 Sam 22:2); ngôn sứ Ezekiel cũng đề cập đến điều đó (Ez 11:5). Trong bài giảng đầu tiên vào ngày Chúa Thánh Linh hiện xuống, Thánh Phêrô diễn tả cũng niềm tin dẫn thượng, nhìn nhận “Chúa Thánh Linh đã nói qua miệng vua David” (Cv 1:16). Tác giả Thư gửi các tín hữu Do Thái mô tả tương tự về chính mình (Dt 3:7; 10:15). Với lòng biết ơn sâu xa, Giáo Hội tiếp nhận Sách các tiên tri như hồng ân từ Chúa Thánh Linh, Đấng cho thấy chính Ngài rất gần gũi và hoạt động từ khởi đầu lịch sử cứu độ nhân loại.
Buổi gặp chung ngày 31 tháng Mười, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Luận Đề: Chúa Thánh Linh “Bởi Chúa Con mà ra (Filioque)”
Khi chúng ta tuyên tín vào “Chúa Thánh Linh là Thiên Chúa, và Đấng Ban Sự Sống,” chúng ta tuyên xưng thêm “Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra.” Những lời này được thêm vào kinh Tin Kính Nicene mà nguyên văn là: “Chúng tôi tin kính Chúa Thánh Linh” (tc. DS 125). Công Đồng Constantinople (381) đã giải thích thêm Chúa Thánh Linh “bởi Chúa Cha mà ra” (tc. DS 150), vì thế nên chúng ta gọi kinh Tinh Kính này là kinh Tin Kính Nicene-Constatinopolitan. Lời tuyên tín theo Công Đồng năm 381 là: “Chúng tôi tin kính Chúa Thánh Linh, Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra.” Công thức đầy đủ hơn: “... Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra” (qui a Patre Filioque procedit), vốn đã sẵn có trong các văn bản cổ xưa. Công thức này lại được Thượng Hội Đồng tại Aachen đưa ra năm 809, và sau cùng được giới thiệu tại Roma năm 1014 khi tấn phong Hoàng Đế Henry II.
Từ đó niềm tin kính Chúa Thánh Linh phổ biến khắp Tây Âu, nên các Giáo Hội Hy Lạp và Latin đã công nhận tại Công Đồng Đại Kết (toàn cầu) ở Lyons (II, 1274) và Florence (1439) (tc. DS 150, Nota Introductoria). Lời tuyên tín trên đây là một minh xác không thay đổi chút gì về bản chất niềm tin vốn có từ xưa. Các vị giáo chủ Roma đều minh thị nhìn nhận điều tuyên tín này vì tôn trọng lời tuyên tín cổ xưa đã truyền bá khắp nơi, và cũng được dùng tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Phương Tây cũng chấp nhận dễ dàng phần thêm vào lời tuyên tín về Chúa Thánh Linh, tuy nhiên gặp phải sự gia tăng những dè dặt và tranh luận giữa các huynh đệ Đông Phương vì những vị này cho rằng Phương Tây đã thay đổi bản chất đức tin. Ngày nay chúng ta cảm tạ Chúa vì ý nghĩa đích thực của niềm tin kính vào Chúa Thánh Linh, và đã san bằng cách biệt giữa Đông Tây về điểm then chốt liên quan đến vấn đề filioque. Tuy nhiên trong trạng huống hiện tại, chúng ta phải chú tâm nghiên cứu “nguồn gốc” Chúa Thánh Linh và cùng nhau tham luận vấn đề (Chúa Thánh Linh) “Bởi Chúa Con mà ra (Filioque).”
Trước hết, Sách Thánh nói đến việc Chúa Thánh Linh từ Chúa Cha mà ra. Chẳng hạn, trong Phúc Âm Thánh Matthêu khi Chúa Giêsu phái Nhóm Mười Hai lên đường công tác lần thứ nhất, Ngài đã bảo đảm với các ông rằng: “Anh em đừng sợ phải nói thế nào hoặc phải nói gì. Vì sẽ không phải anh em nói mà Thánh Linh của Chúa Cha nói qua anh em” (Mt 10:19-20). Trong Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói: “Khi Đấng Phù Trợ mà Thầy sẽ gởi đến, Thánh Linh Chân Lý Đấng từ Chúa Cha mà đến, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Jn 15:26). Theo nhiều nhà chú giải, những lời Chúa Giêsu nói trên đây qui hướng trực tiếp tới sứ mệnh nơi trần thế mà Chúa Cha đã trao cho Chúa Thánh Linh. Một cách hợp lý chúng ta có thể thấy những lời này phản ánh tiến trình vĩnh cửu, và vì thế nên nguyên ủy của Chúa Thánh Linh là do Chúa Cha mà ra.
Hiển nhiên vì chúng ta đang đề cập đến vấn đề Thiên Chúa nên chúng ta cần phải bỏ từ ngữ “căn để (origin)” ra khỏi mọi dẫn chiếu căn nguyên của thụ tạo có tính cách tạm bợ thế tục. Nghĩa là cần phải loại bỏ ý niệm thông ban sự hiện hữu cho bất cứ ai theo ý nghĩa tích cực, thế nên cần loại bỏ ý nghĩ về sự hiện hữu người ngày trước người kia, trên hay dưới và lệ thuộc vào người khác. Vậy nơi Thiên Chúa mọi sự đều vĩnh cửu, phi thời gian. Vì thế, căn nguyên Chúa Thánh Linh thì đời đời, cũng như căn nguyên của Chúa Con trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản tính. Điều này hiển nhiên là một tiến trình với những căn nguyên linh thiêng, (để cho dễ hiểu, chúng ta diễn tả bằng một loại suy, analogy, dẫu bất toàn) chẳng hạn như linh hồn kết hiệp với tâm trí “sản sinh” ra tư tưởng hoặc tình yêu. Thánh Thomas viết, “Chính đức tin Công Giáo chấp nhận các tiến trình nơi Thiên Chúa theo ý nghĩa này” (Summa Theol., I, q. 27, a, I; aa. 3-4).
Dẫu rằng không nói rõ tiến trình và căn nguyên của Chúa Thánh Linh từ Chúa Con, nhưng các văn bản Tân Ước vẫn nhấn mạnh mối liên hệ rất mật thiết giữa Chúa Thánh Linh và Chúa Con. Việc gửi Chúa Thánh Linh đến trên các tín hữu không phải chỉ là công việc của Chúa Cha, mà cũng còn là công việc của Chúa Con nữa. Tại căn phòng trên lầu, Chúa Giêsu nói: “Chúa Thánh Linh mà Chúa Cha sẽ gởi đến nhân danh Thầy” (Jn 14:26), Ngài nói thêm: “Nếu Thầy đi, Thầy sẽ gửi Ngài (Chúa Thánh Linh) đến với anh em” (Jn 16:7).
Trong những đoạn khác của Phúc Âm, Chúa Giêsu nói về mối liên hệ giữa Chúa Thánh Linh và mạc khải được Chúa Con trao ban, chẳng hạn như: “Ngài (Chúa Thánh Linh) sẽ tôn vinh Thầy vì Ngài lấy mọi điều của Thầy mà nói cho anh em biết. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy; vì lý do này Thầy đã nói với anh em Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em biết” (Jn 16:14-15).
Phúc Âm nói rõ Chúa Con, chứ không phải chỉ một mình Chúa Cha, “phái (gửi)” Chúa Thánh Linh đến với các tông đồ. Phúc Âm nói Thánh Linh “lấy” từ Chúa Con điều Ngài mạc khải, vì mọi sự Chúa Cha có cũng thuộc về Chúa Con (tc. Jn 16:15).
Những lời này được thể hiện trọn vẹn sau khi Chúa Giêsu phục sinh đi qua “các cửa đóng kín” vào nơi các tông đồ ẩn náu vì sợ người Do Thái, Ngài “hà hơi vào” các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh” (Jn 20:22).
Những đoạn Phúc Âm dẫn thượng là đề tài căn bản cho cuộc thảo luận của chúng ta. Cùng với những đoạn này có những điều khoản khác trong Tân Ước cho thấy Chúa Thánh Linh không những chỉ là Thần Linh của Chúa Cha, nhưng cũng là Thần Linh của Chúa Con, Thần Linh của Chúa Kitô. Chúng ta đọc trong Thư gửi giáo đoàn tại Galat: “Thiên Chúa đã phái Thần Linh của Chúa Con vào trái tim chúng ta, kêu lên: ‘Abba, Cha ơi!” (4:6). Trong những văn bản khác Thánh Tông Đồ nói về “Thần Linh của Chúa Giêsu Kitô” (Phil 2:19) và “Thần Linh của Chúa Kitô” (Rom 8:9). Thánh Phaolô nói: “do quyền năng Chúa Thánh Linh” (Rom 15:19), Chúa Kitô thể hiện mọi việc qua Chúa Thánh Linh. Nhiều bản văn khác có nội dung tương tự như bản văn này (tc. Rom 8:2; 2 Cor 3:17 ff.; 1 Pet 1:11).
Thực ra nghi vấn về “căn để (origin)” của Chúa Thánh Linh trong sự sống Ba Ngôi của Một Thiên Chúa Duy Nhất, dựa trên Sách Thánh, đã từng là đề tài cho việc nghiên cứu thần học lâu dài và phức tạp. Bên Phương Tây, Thánh Ambrose, trong tác phẩm De Spiritu Sancto, và Thánh Augustine trong tác phẩm De Trinitate, đã đóng góp lớn lao vào việc làm sáng tỏ vấn đề khó khăn này. Nỗ lực thấm sâu hơn nữa vào huyền nhiệm sự sống thâm sâu của Thiên Chúa Ba Ngôi, mà các Giáo Phụ và Tiến Sĩ thuộc Giáo Hội Latin và Hy Lạp khác nữa (bắt đầu là các Thánh Hilary, Basil, Diogenus, Gioan Damascene) đã thực hiện, hiển nhiên dọn đường cho việc đưa vào kinh Tin Kính công thức về Chúa Thánh Linh là Đấng “bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra.” Tuy nhiên anh em Đông Phương duy trì công thức đơn thuần tinh dòng của Công Đồng Constantinople (381), lại vẫn nguyên như thế từ đó Công Đồng Chalcedon (451) xác nhận tính chất “hoàn vũ” của Công Đồng trước (mặc dầu hầu hết các tham dự viên đều là giám mục Đông Phương). Vì thế trong nhiều thế kỷ kế tiếp, vào năm 882 ông Photius đã khởi động việc ly giáo vì quan niệm Filioque (và bởi Chúa Con) của Công Giáo Latin (Phương Tây), dầu rằng niềm tin về Chúa Thánh Linh đã được đón nhận và lan tràn tới hầu hết toàn thể Đông Phương theo Kitô Giáo từ năm 105. Trong kinh Tin Kính của các Giáo Hội Đông Phương, ly khai khỏi Rome, ngày nay vẫn còn tuyên xưng niềm tin: “tin Chúa Thánh Linh bởi Chúa Cha mà ra,” mà không nói tới Filioque (và bởi Chúa Con mà ra). Ở Tây Phương, chúng ta tuyên xưng rõ ràng Chúa Thánh Linh “từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra.”
Các đại Giáo Phụ và Tiến Sĩ ở Đông Phương (Ephraim, Althanasius, Basil, Epiphanius, Cyril thành Alexandria, Maximus, Gioan Damascene) và thuộc Tây Phương (Tertullian, Hilary, Ambrose, Augustine) nói rõ về giáo thuyết này. Nối tiếp các Giáo Phụ, Thánh Thomas đưa ra một giải thích sâu sắc về công thức dựa trên căn bản nguyên lý về sự hiệp nhất và bình đẳng của các Ngôi Thiên Chúa trong liên hệ Tam Vị (tc. Summa Theol., I, q. 36, aa. 2-4).
Sau cuộc ly giáo, nhiều Công Đồng khác trong thiên niên kỷ thứ hai đã cố gắng tái lập việc hiệp nhất giữa Rome và Constantinople. Chủ đề “Chúa Thánh Linh từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra” là đối tượng chính phải được làm sáng tỏ, đặc biệt là tại Công Đồng Lateran IV (1215), Công Đồng Lyons II (1274) và sau chót tại Công Đồng Florence (1439). Tại Công Đồng Florence chúng ta tìm thấy tuyên ngôn có giá trị làm sáng tỏ lịch sử và đồng thời là tuyên ngôn giáo thuyết (tín điều): “Giáo Hội Công Giáo Latin (Tây Phương) tuyên ngôn rằng do việc tuyên xưng Chúa Thánh Linh bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Giáo Hội Tây Phương không loại bỏ Chúa Cha là nguồn và nguyên lý của toàn thể thiên tính, tức là của Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Giáo Hội Tây Phương cũng không chối bỏ Chúa Con học biết từ Chúa Cha và Chúa Thánh Linh từ Chúa Con mà ra; Giáo Hội Tây Phương cũng không quan niệm có hai nguyên tắc hoặc hai nhiệm xuy (spiration(s). Trái lại Giáo Hội Tây Phương (Công Giáo Latin, Công Giáo La Mã) minh thị chỉ có một nguyên lý và nhiệm xuy duy nhất về Chúa Thánh Linh, như Giáo Hội đã khẳng định xưa nay” (tc. Conciliorum Oecumenicorum Decreta, Bologna 1973, p. 526).
Đây là âm vang của truyền thống Latin (Công Giáo) mà Thánh Thomas dẫn chiếu một bản văn của Thánh Augustine, theo “Pater et Filius sunt unum principium Spiritus Sancti” (De Trinitate, V, 14: PL 42, 921) để đưa ra định nghĩa rành mạch theo thần học (tc. Summa Theol., I, q. 36, a. 3).
Như thế, những vấn đề thuật ngữ về ngôi vị dường như đã giải quyết và như vậynhững ước vọng đó đã được minh giải, tới mức độ là mỗi phía, Giáo Hội Hy Lạp (Đông Phương) và Giáo Hội Latin (Công Giáo), trong kỳ họp thứ sáu (ngày 6 tháng Bảy, 1439) đã có thể ký chung một định nghĩa: “Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, với sự chấp thuận của thánh Công Đồng hoàn vũ tại Florence, chúng tôi ấn định rằng chân lý này của đức tin phải được toàn thể mọi Kitô hữu tin và chấp nhận; và như thế tất cả mọi tín hữu phải tuyên xưng Chúa Thánh Linh hằng hữu thuộc về Chúa Cha và Chúa Con, tin Chúa Thánh Linh thủ đắc sự hiện hữu và đồng bản tính từ Chúa Cha và Chúa Con, và tin Chúa Thánh Linh đời đời bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra như từ một nguyên lý duy nhất và từ một nhiệm xuy duy nhất” (DS 1300).
Có thêm một minh giải bổ sung nữa mà Thánh Thomas dành một đề tài trong Summa để giải thích (“Utrum Spiritus Sanctus procedat a Patre per Filium,” I, q. 36, a. 3): Công Đồng nói: “Chúng tôi tuyên ngôn điều các thánh Tiến Sĩ và Giáo Phụ đã tuyên bố rằng Chúa Thánh Linh bởi Chúa Cha qua Chúa Con mà ra. Lời minh giải đó có khuynh hướng dễ hiểu và chuyên chở ý nghĩa là cả Chúa Con nữa, cũng như Chúa Cha, là uyên nguyên như Giáo Hội Hy Lạp nói, còn Giáo Hội Latin (Công Giáo) thì nói Chúa Cha là nguyên lý hiện hữu (tồn tại = subsistence) của Chúa Thánh Linh. Và vì tất cả mọi sự Chúa Cha có thì Ngài đã trao cho Chúa Con trong việc sinh ra Chúa Con. Khi sinh ra Chúa Con, Chúa Cha đã trao hết mọi sự của Ngài cho Chúa Con ngoại trừ địa vị là Cha. Chính Chúa Thánh Linh nhiệm xuy từ Chúa Con mà tự thân Chúa Con đã có nhiệm xuy ấy do Chúa Cha từ thuở đời đời, Chúa Con đã được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở” (DS 1301).
Ngày nay văn bản Công Đồng này vẫn là một căn bản hữu ích để thảo luận và thỏa thuận giữa anh em Đông và Tây Phương, mà còn hơn thế nữa vì định nghĩa đã được chấp thuận kết thúc bằng tuyên ngôn sau đây: “Chúng tôi minh xác ... rằng lời giải thích về từ ngữ Filioque (bởi Chúa Con mà ra) đã được thêm vào kinh Tin Kính cách đúng luật và chính đáng, ngõ hầu làm cho chân lý này sáng tỏ rõ ràng hơn và vì những nhu cầu trong các thời kỳ đó” (DS 1302).
Sau Công Đồng Florence, Giáo Hội Tây Phương tiếp tục tuyên xưng Chúa Thánh Linh “bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra,” trong khi Giáo Hội Đông Phương tiếp tục duy trì công thức nguyên thủy của Công Đồng Constantinople. Nhưng từ thời Công Đồng Vatican II, một cuộc đối thoại hiệp nhất có kết quả đã thành hình. Đối thoại đó dường như đã dẫn tới kết luận là tuyên tín Filioque (bởi Chúa Con mà ra) không còn là chướng ngại quan trọng nhất cho việc đối thoại và tiến triển của nó, mà mọi người đều hy vọng và cầu xin Chúa Thánh Linh làm cho có kết quả.
Buổi gặp chung ngày 7 tháng Mười Một, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh Là “Tình Yêu Nhiệm Xuất”
Hôm nay chúng ta bắt đầu bài giáo lý bằng cách nhắc lại lời giải thích trước kia về đề tài Thiên Chúa Duy Nhất mà đức tin Kitô giáo dạy chúng ta nhìn nhận và tôn thờ là Thiên Chúa Ba Ngôi. “Tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con phát sinh một Ngôi Thiên Chúa trong các Ngài và từ các Ngài: Chúa Cha và Chúa Con ‘nhiệm xuy’ Thánh Linh Tình Yêu Đấng cùng một bản thể với Ngôi Cha và Ngôi Con.” Từ khởi đầu Giáo Hội đã duy trì niềm tin Chúa Thánh Linh là Tình Yêu từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra.
Trong Tân Ước và đặc biệt là Thư I của Thánh Gioan (1 Jn 4:8), chúng ta tìm thấy những lời tuyên tín căn bản “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Jn 4:8). Dẫn chiếu về tuyên tín này cũng còn thấy ở truyền thống Giáo Phụ và Tiến Sĩ Giáo Hội.
Những lời trên đây của Thánh Gioan nói đến chính bản thể của Thiên Chúa mà Ba Ngôi Vị có cùng bản tính duy nhất, và tất cả là Tình Yêu đồng đều, nghĩa là lòng ước muốn sự tốt lành cho nhau (cho Ngôi Vị kia), và động lực thúc đẩy nội tâm hướng tới đối tượng yêu thương, ở trong cũng như ở ngoài sự sống vĩnh cửu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhưng đã đến lúc phải cùng với thánh Thomas Aquinas nhìn nhận rằng ngôn ngữ của chúng ta nghèo nàn về thuật ngữ nên không có thể diễn đạt được ước muốn đưa người yêu đến với người được yêu. Điều đó đúng với bản chất sâu thẳm của tình yêu. Vì tình yêu phát sinh từ ý muốn hoặc trái tim, tình yêu không rõ ràng và tự thức như trường hợp một ý kiến phát xuất từ trí óc. Một mặt, trong lãnh vực trí tuệ chúng ta có những ngôn từ khác nhau để diễn tả mối liên hệ giữa người biết và người (hoặc vật) được biết đến, và mặt khác, một ý kiến phát sinh từ trí óc trở thành hành động của tri thức (nói thành lời: “verbum” phát xuất từ tâm thức). Những điều tương tự như thế không có trong địa hạt ước muốn và tâm tình. Hiển nhiên “giả dụ rằng một người yêu thích điều gì đó thì lập tức ấn tượng lưu lại trong người ấy, trong cảm giác của người (nam hay người nữ) đó, vì thế ta có thể nói ấn tượng ấy là đối tượng thương yêu, nhờ đó đối tượng được yêu hiện hữu trong người yêu nó, như vậy một đối tượng tri thức hiện hữu trong chính người biết nó.
“Như thế khi một người biết mình và yêu thương mình thì người đó ở trong tự thể của chính họ, không những chỉ vì người đó hoàn toàn đồng hóa với chính mình, mà cũng vì người đó là đối tượng tự tri và tự thương yêu mình.” Vả lại trong ngôn ngữ loài người, “những từ ngữ khác chưa được tìm ra để mô tả mối liên hệ hiện hữu giữa tình cảm, hoặc cảm tưởng do đối tượng được yêu thương gây ra, và nguyên lý nội tại từ đó tình cảm nảy sinh, hoặc trái lại. Bởi thế, vì nghèo nàn ngôn từ (propter vocabulorum inopiam) nên những liên hệ này chỉ được diễn tả bằng những từ ngữ tình yêu (love) và thích thú (delight). Chẳng khác gì chúng ta gọi những danh xưng tri thức tự hữu (conceived knowing) hoặc minh triết tạo thành (generated wisdom) là “Thánh Ngôn (the Word)”.
Từ đó Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần kết luận: “Nếu trong những từ ngữ “tình yêu (love) và yêu thương (to love, diligere)” chúng ta muốn chỉ nói tới mối liên hệ giữa người yêu và người (hoặc vật) được yêu, thì những từ ngữ này (trong Thiên Chúa Ba Ngôi) nói về bản thể Thiên Chúa, cũng tương tự như những từ ngữ tri thức và hiểu biết. Nếu chúng ta sử dụng cùng những từ ngữ đó để biểu thị những tương quan vẫn hiện hữu giữa chủ thể phát sinh hoặc nhiệm xuy từ hành động và đối tượng của yêu thương, và nguyên tắc tương quan, theo thể cách Tình Yêu (Love) tương xứng với Tình Yêu phát sinh ra từ đó, và Yêu (to Love, diligere) tương đương với nhiệm xuy tạo ra tình yêu, thế thì Tình Yêu là danh xưng của một ngôi vị ...” mà ngôi vị ấy chính là Chúa Thánh Linh (Summa Theol., I, q. 37, a. 1).
Thánh Thomas Aquinas đã sử dụng phân tích tu từ học trên đây rất hữu ích ngõ hầu làm sáng tỏ tương đối ý tưởng về Chúa Thánh Linh là Ngôi Vị-Tình Yêu (Love-Person), mà trong Thiên Chúa Ba Ngôi thì tất cả “là Tình Yêu.” Tuy nhiên cần phải nói thêm rằng Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần sử dụng danh từ tình yêu làm chính danh của Chúa Thánh Linh đã tìm thấy trong những lời giảng dạy của các Giáo Phụ. Các Giáo Phụ là những sứ giả loan báo mạc khải của Chúa Giêsu và lời các tông đồ rao giảng, và chúng ta cũng biết nhờ các văn kiện khác của Tân Ước. Vì thế khi Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha lời cầu nguyện tư tế vào lúc Tiệc Ly, Ngài nói: “Con đã cho họ biết danh Cha, và Con sẽ còn cho họ biết danh Cha nữa, để tình yêu mà Cha đã yêu Con cũng ở trong họ và Con ở trong họ” (Jn 17:26). Ở đây chúng ta đang đề cập tới tình yêu mà Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con “trước khi tạo dựng vũ trụ muôn loài” (Jn 17:24). Theo một số nhà chú giải thời nay thì ít nhất một cách gián tiếp, những lời Chúa Giêsu ở đây nói về Chúa Thánh Linh, Đấng là Tình Yêu mà bằng tình yêu đó Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Đấng được Chúa Cha yêu thương từ thuở đời đời. Trước kia Thánh Thomas đã nghiên cứu cặn kẽ một văn bản của Thánh Augustine về tình yêu tương tác (reciprocal love) của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Linh (tc. De Trinitate, VI, 5; XIV, 7, PL 43, 928, 1065). Vần đề này được nhiều phái kinh viện khác bàn luận vì cách thái thảo luận lần gót vào môn thần học thời trung đại: “Utrum Patre et Filius diligant se Spiritu Sancto (Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau nhiệm xuy Chúa Thánh Linh”; Thánh Thomas đã kết luận phần phân tích văn chương và học thuyết của ngài bằng lời giải thích tuyệt vời sau đây: “Cùng cách như chúng ta nói cây trổ bông, chúng ta nói Chúa Cha nói với chính Ngài và mọi thụ tạo của Ngài trong Ngôi Lời, Con của Ngài, Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau và yêu thương chúng ta trong Chúa Thánh Linh, nghĩa là trong Tình Yêu phát sinh” (Summa Theol., I, q. 37, a. 2).
Cũng trong lời từ biệt lúc Tiệc Ly, Chúa Giêsu cũng loan báo Thiên Chúa Cha sẽ gửi tới cho các tông đồ và Giáo Hội “Đấng An Ủi ... Thánh Linh chân lý” (Jn 14:16-17), và Chúa Giêsu, Chúa Con, cũng sẽ phái Đấng An Ủi đến (tc. Jn 16:7) “ở với anh em luôn mãi” (Jn 14:16-17). Vì thế, các tông đồ sẽ nhận được Chúa Thánh Linh là Tình Yêu kết hiệp với Chúa Cha và Chúa Con. Do quyền năng của Tình Yêu này Chúa Cha và Chúa Con “sẽ ở với họ” (Jn 14:23).
Cũng về vấn đề tình yêu, chúng ta cần học hỏi một đoạn khác trong lời cầu nguyện tư tế khi Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ hiệp nhất: “Để họ có thể nên một như Cha, Chúa Cha, ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ có thể nên một trong Chúng Ta, ngõ hầu thế gian nhận biết Cha đã phái Con đi” (Jn 17:21). Nếu các môn đệ trở nên “một trong Chúng Ta,” nghĩa là trong Chúa Cha và Chúa Con, điều này chỉ có thể xảy ra do quyền năng Chúa Thánh Linh, Đấng được Chúa Kitô loan báo sẽ đến ở trong các môn đệ: Ngài “ở với anh em và ở trong anh em” (Jn 14:17).
Giáo Hội sơ khai hiểu và chấp nhận lời loan báo của Chúa Giêsu. Ngoài Phúc Âm Thánh Gioan, chúng ta còn thấy điều này trong ghi chú của Thánh Phaolô về tình yêu Thiên Chúa “đã trút vào lòng chúng ta nhờ Thánh Linh Đấng được ban cho chúng ta” (Rom 5:5). Những lời trong Phúc Âm và Thư I của Thánh Gioan đã chứng minh điều này: “Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài được làm cho toàn hảo trong chúng ta. Đây là cách chúng ta biết chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta: (nghĩa là) Ngài đã ban Thánh Linh của Ngài cho chúng ta” (1 Jn 4:12-13).
Truyền thống về Chúa Thánh Linh là Ngôi Thiên Chúa Tình Yêu được phát triển trên những căn bản này. Chương trình của Chúa Ba Ngôi về việc thánh hóa cứu độ (salvific sanctification) cho phép các Giáo Phụ và Tiến Sĩ Giáo Hội “có cái nhìn quán triệt” vào mầu nhiệm thâm tình của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Augustine cũng đã góp phần vào công việc trên cách đặc biệt trong tác phẩm De Trinitate, đóng góp một đường lối có tính cách quyết định cho việc hình thành và phát triển giáo huấn này ở Tây Phương. Những suy niệm của Thánh Augustine phát triển từ quan niệm Chúa Thánh Linh là Tình Yêu hỗ tương và là mối ràng buộc hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Augustine viết: “Như chúng ta gọi một cách chính đáng Ngôi Lời duy nhất của Thiên Chúa là ‘Đấng Khôn Ngoan,’ mặc dầu nói cách tổng quát thì Chúa Thánh Linh và chính Chúa Cha đều là Đấng Khôn Ngoan, Chúa Thánh Linh cũng được đặt tên riêng là Tình Yêu, mặc dầu Chúa Cha và Chúa Con cũng là Tình Yêu theo nghĩa chung” (De Trinitate, XV, 17, 31; CC 50, 505).
“Chúa Thánh Linh chung mọi sự với Chúa Cha và Chúa Con ... đồng bản thể và hiệp thông đời đời ... Các Ngài chỉ có ba ... Vị thứ nhất yêu thương Vị thứ hai từ mình mà ra; Vị thứ hai yêu thương Vị thứ nhất nhiệm xuy ra mình; và Vị thứ ba là Tình Yêu tự hữu” (De Trinitate, VI, 5, 7; CC 50, 295, 236).
Người ta cũng tìm thấy giáo thuyết trên đây ở Đông Phương. Các Thánh Giáo phụ: Cyril thành Alexandria (+ 444), Epiphanius thành Salamis (+ 403) (tc. Ancoratus, 7: PG 43, 28B) nói về Chúa Thánh Linh là Đấng hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Con và là mối kết hợp Chúa Ba Ngôi.
Các thần học gia Đông Phương vào những thời đại sau vẫn duy trì cùng hệ tư tưởng đó. Trong số các vị đó là tu sĩ Gregory Palamas, Tổng Giám Mục Thessalonica (thế kỷ 14) viết: “Thánh Linh của Ngôi Lời tối cao giống như thứ tình yêu Chúa Cha dành cho Ngôi Lời Đấng được sinh ra cách huyền nhiệm; và cũng chính tình yêu đó Ngôi Lời, Con vô cùng yêu dấu của Chúa Cha, dành cho Đấng sinh ra mình” (Capita Physica, 36: PG 150, 1144 D-1145 A). Chúng ta vui mừng trích dẫn từ Bulgakov, một trong những tác giả cận đại: “Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh là tình yêu, thì Chúa Thánh Linh là Tình Yêu của tình yêu đó” (The Paraclete, Italian ed, Bologna, 1972, p.121).
Đức Giáo Hoàng Leo XIII gom chung lại từ truyền thống và tổng hợp giáo thuyết của Đông và Tây Phương trong Tông Huấn của Ngài về Chúa Thánh Linh. Đức Leo XIII viết: Chúa Thánh Linh “là Thiên Chúa và là Tình Yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con” (tc. DS 3326). Nhưng trong phần kết luận, chúng ta nhắc lại lời Thánh Augustine: “Tình Yêu vốn từ Thiên Chúa và là Thiên Chúa: vậy hiển nhiên Tình Yêu là Chúa Thánh Linh, nhờ Ngài tình yêu của Thiên Chúa trải rộng nơi trái tim chúng ta bởi việc Chúa Ba Ngôi ngự trong chúng ta ... Danh xưng chính đáng của Chúa Thánh Linh là Hồng Ân phát sinh trong Tình Yêu” (De Trinitate, XV, 18, 32: PL 42, 1082-1083). Vì Chúa Thánh Linh là Tình Yêu, nên Ngài là Hồng Ân. Đây là chủ đề bài giáo lý tiếp theo của chúng ta.
Buổi gặp chung ngày 14 tháng Mười Một, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh Là Hồng Ân
Tất cả chúng ta đều nhớ những lời ân cần mời gọi mà Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samaria, khi chị này tới giếng Jacob để lấy nước, Ngài nói: “Nếu chị nhận biết hồng ân Thiên Chúa” (Jn 4:10). Những lời này dẫn chúng ta đến một phương diện căn bản khác của chân lý mạc khải về Chúa Thánh Linh. Trong dịp đó Chúa Giêsu nói về hồng ân “nước hằng sống,” Ngài nói người nào uống nước (hằng sống) ấy “sẽ không bao giờ khát” (Jn 4:14). Vào dịp khác Chúa Giêsu nói tại Jerusalem về “những dòng (sông) nước hằng sống” (Jn 7:38). Khi tường thuật những lời trên đây, thánh sử ghi chú thêm rằng Chúa Giêsu nói điều này “đề cập đến Thánh Linh mà những người tin vào Ngài (Chúa Giêsu) sẽ nhận được” (Jn 7:39). Về sau thánh sử giải thích rằng (Hồng Ân) Thánh Linh sẽ chỉ được ban ra sau khi Chúa Giêsu đã “được tôn vinh” (Jn 7:39).
Suy niệm những văn bản này và những văn liệu tương tự cho thấy niềm xác tín quan niệm về Chúa Thánh Linh là Hồng Ân Chúa Cha ban nằm trong mạc khải của Chúa Giêsu. Thêm nữa trong Phúc Âm Thánh Luca, khi nói về cầu nguyện (gần như là một bài giáo lý), Chúa Giêsu nói với các môn đệ: nếu người ta biết cho con cái họ những của quí giá, “thì Cha trên trời sẽ ban Chúa Thánh Linh cho những người kêu cầu Ngài nhiều lần gấp bội” (Lc 11:13). Chúa Thánh Linh giá trị “vô cùng” hơn bất cứ thứ gì khác (tc. Mt 7:11), “ân sủng vĩ đại” bậc nhất!
Trong lời từ biệt, Chúa Giêsu hứa chính Ngài sẽ xin Chúa Cha và Chúa Cha sẽ ban cho các tông đồ và môn đệ hồng ân vượt trên mọi hồng ân khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác ở với anh em luôn mãi” (Jn 14:16). Chúa Giêsu hứa điều này trước ngày chịu khổ hình. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu loan báo việc hoàn thành lời cầu nguyện của Ngài đã cận kề: “Thầy sẽ gởi xuống cho anh em điều Chúa Cha đã hứa ... cho tới khi anh em nhận được tràn đầy sức mạnh từ trời cao” (Lk 24:49). Và “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên anh em; khi đó anh em phải là chứng nhân của Thầy ... tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban hồng ân Chúa Thánh Linh cho các tông đồ và Giáo Hội cho tới tận thế. Nhưng đồng thời Chúa Giêsu mang hồng ân này trong chính Ngài, và sở hữu sung mãn Chúa Thánh Linh ngay trong nhân tính của Ngài vì “Chúa Cha yêu thương Chúa Con nên đã ban hết mọi sự cho Chúa Con” (Jn 3:35). Chúa Giêsu là Đấng “Thiên Chúa đã phái đến, Ngài nói những lời Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban ơn Thánh Linh vô ngần vô hạn” (Jn 3:34).
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, mặc dầu trong nhân tính, Ngài gởi Chúa Thánh Linh đi khắp mọi nơi. Mặc dù Chúa Thánh Linh là Ân Sủng toàn vẹn của Chúa Cha, Chúa Kitô, con người, đã vâng lệnh Chúa Cha chịu khổ hình cứu độ trên thập giá mà Ngài hằng ấp ủ bấy lâu. Ngài đã vâng phục “cho đến chết trên thập giá” (Phil 2:8), mạc khải và ban Chúa Thánh Linh cho các tông đồ. Theo chương trình cứu độ, việc xảy ra trong căn phòng trên lầu mà Chúa Giêsu gọi là “việc ra đi” của Ngài trở nên thời điểm được tiền định nối tiếp bằng “việc Thánh Linh ngự đến” (tc. Jn 16:7).
Nhờ cực điểm của việc Chúa Ba Ngôi tự khải, chúng ta được phép đi sâu hơn nữa vào đời sống bên trong của Thiên Chúa. Chúng ta được mạc khải cho biết Chúa Thánh Linh không những chỉ là một Hồng Ân ban cho nhân loại, nhưng cũng là Hồng Ân hiện hữu trong chính sự sống bên trong của Thiên Chúa. Thánh Gioan cho chúng ta biết “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Jn 4:8). Theo lời các nhà thần học minh giải thì tình yêu là căn cốt chung cho cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Tuy nhiên lời minh giải trên đây không loại bỏ niềm tin Chúa Thánh Linh là Thánh Linh của Chúa Cha và Chúa Con, là Tình Yêu trong ý nghĩa cá thể, như chúng ta đã đề cập trong những bài giáo lý trước. Vì thế Ngài “thấu suốt cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:10) bằng sức mạnh xuyên thấu vốn là sở hữu của Tình Yêu. Vì thế Chúa Thánh Linh cũng là Hồng Ân tự hữu và hằng hữu chia sẻ bởi Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, một mà ba. Sự hiện diện của Chúa Thánh Linh là Tình Yêu đồng hóa với sự hiện hữu của Ngài là Hồng Ân. Chúng ta có thể nói “qua Chúa Thánh Linh, Thiên Chúa ‘hiện hữu’ theo thể cách ân sủng. Chúa Thánh Linh là sự biểu lộ cá thể việc tự hiến, là tình yêu vị tha. Như vậy Ngài là Ngôi Thiên Chúa Tình yêu và Hồng Ân” (DViv 10).
Thánh Augustine viết, “... Chúa Con là Đấng mà Chúa Cha sinh ra, nghĩa là Chúa Con phát xuất từ Chúa Cha, như vậy Chúa Thánh Linh, Đấng là Ân Sủng, cũng có nghĩa là Chúa Thánh Linh từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra” (De Trinitate, IV, 20: PL 42, 908). Trong Chúa Thánh Linh Tình Yêu và Ân Sủng hòa quyện đồng đều. Thánh Thomas minh giải điều này một cách sâu sắc như sau: “Tình yêu là lý lẽ, là quà tặng cho người mình yêu. Vì thế đệ nhất hồng ân là tình yêu (amor habel rationem primi doni) ... Như thế, nếu Chúa Thánh Linh phát sinh là Tình Yêu, Ngài cũng nhiệm xuy là Đệ Nhất Hồng Ân” (Summa Theol.,I,q,38, a.2). Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần cũng đồng ý với Thánh Augustine về vấn đê này (De Trinitate, XV, 19; PL 42, 1084): tất cả các ân sủng khác cũng ban phát giữa Nhiệm Thể Chúa Kitô qua Hồng Ân Chúa Thánh Linh.
Chúa Thánh Linh là Ngôi Thiên Chúa Tình Yêu và là Thiên Chúa tự hữu (không phải tạo thành), Ngài là nguồn căn tất cả mọi ân sủng khác tuôn tràn cho các thụ tạo, và là nguồn mạch (fons vivus) mà mọi thụ tạo đều từ đó mà có. Chúa Thánh Linh tựa như lửa yêu thương (ignis caritas), trút những tia lửa chân thực và sự tốt lành xuống cho muôn loài (dona creata). Sự kiện này đề cập tới việc trao ban hiện sinh qua công việc tạo dựng và việc ban ân sủng cho các thiên thần và loài người trong nhiệm cục cứu độ. Vì vậy Thánh Tông Đồ Phaolô viết: “Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Linh là Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (Rom 5:5).
Lời Thánh Phaolô trên đây (Rom 5:5) cũng là một tổng hợp những điều các tông đồ đã giảng dạy ngay sau khi Chúa Thánh Linh hiện xuống. Thánh Phêrô khuyến khích: “Anh chị em cần phải thống hối và chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu ngõ hầu anh chị em được tha thứ tội lỗi, kế đến anh chị em sẽ nhận được hồng ân Chúa Thánh Linh” (Cv 2:38). Chỉ ít ngày sau đó Thánh Phêrô được phái đi làm Phép Rửa cho viên sĩ quan bách quân Cornelius. Thánh Phêrô hiểu mạc khải là “ơn Chúa Thánh Linh cũng phải được tuôn đổ xuống cho những người dân ngoại nữa” (tc Cv 10:45). Sách Công Vụ cũng tường thuật sự việc Simon Magus muốn dùng tiền bạc để mua hồng ân Chúa Thánh Linh. Ông Simon Phêrô đã nghiêm khắc khiển trách y (Simon Magus) vì việc đó, và tái minh xác rằng Chúa Thánh Linh là hồng ân chỉ nhận được “như quà tặng” vì là hồng ân của Thiên Chúa (tc. Cv 8:19-23).
Các Giáo Phụ nhắc lại điều trên đây. Chẳng hạn, Thánh Cyril thành Alexandria viết “việc chúng ta trở về với Thiên Chúa thể hiện được nhờ Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, và chỉ xảy ra qua sự cộng tác và thánh hóa của Chúa Thánh Linh. Chúa Kitô liên kết chúng ta và, có thể nói, kết hiệp chúng ta với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Vì nhận được Thánh Linh, nên chúng ta là những người tham gia vào và kết hợp với bản tính thần linh, chúng ta nhận được Thánh Linh qua Chúa Con, và trong Chúa Con chúng ta nhận được Chúa Cha” (Commentary on John’s Gospel, 9, 10: PG 74,544 D). “Việc trở về với Thiên Chúa” thể hiện liên tục trong mọi cá nhân, qua muôn thế hệ suốt giai đọan chuyển tiếp giữa “lúc ra đi” cứu độ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Cha, và việc Chúa Thánh Linh hằng “ngự xuống” để thánh hóa, mà sự kiện ấy sẽ hoàn tất khi Chúa Giêsu vinh hiển trở lại vào ngày tận thế. Tất cả mọi điều thuộc bình diện nhiệm tích, đoàn sủng và phẩm trật Giáo Hội phục vụ việc nhân loại “trở lại” với Chúa Cha trong Chúa Con đều là việc tuôn đổ Hồng Ân duy nhất và vĩnh cửu dưới muôn hình thức khác nhau. Hồng ân này là Chúa Thánh Linh, thể hiện qua chiều kích ân sủng tác tạo, có nghĩa là chia sẻ cho nhân loại Tình Yêu miên viễn. Thánh Thomas nói “Chúa Thánh Linh là Đấng tự hiến” (Summa Theol.,I,q. 38, a. I, ad 1). Hiển nhiên có sự tồn tục (liên tục) giữa Hồng Ân tự hữu và ân sủng tác thành. Nên Thánh Augustine đã viết rằng: “Chúa Thánh Linh là Hồng Ân đời đời, nhưng trong thời gian Ngài là Đấng được ban ra” (De Trinitate, V, 16, 17; CC 50, 224).
Truyền thống xa xưa kể trên đây của các Giáo Phụ và Tiến Sĩ Giáo Hội là những mắt xích nối liền với Chúa Giêsu Kitô và các Thánh Tông Đồ như cha đã viết trong Dominum et Vivificantem: “Tình yêu của Thiên Chúa Cha, là hồng ân, là ân sủng vô tận, là căn nguyên sự sống, đã trở nên hữu hình trong Chúa Kitô, và trong nhân tính của Ngài tình yêu đó đã trở nên ‘thành phần’ của hoàn vũ, gia đình nhân loại và lịch sử. Ân sủng này xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại qua Chúa Giêsu Kitô và được hoàn thành nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh, Đấng là nguồn mọi hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới. Chúa Thánh Linh là ‘Thiên Chúa ẩn hình,’ là tình yêu và ân sủng ‘đổ tràn đầy vũ trụ’” (số 54). Căn cốt của trật tự vũ trụ này, nhân loại được tạo dựng do ân sủng Chúa Thánh Linh, con người là “thụ tạo có lý trí, không giống như các thụ tạo khác trong trần thế, nên con người có thể đạt được việc vui hưởng Chúa Thánh Linh và sử dụng các hồng ân của Ngài. Loài người có lý trí có thể đạt tới điểm này khi con người trở nên người chia sẻ trong Ngôi Lời Thiên Chúa và trong Tình Yêu từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra để qua sự tự do hoàn toàn trong tâm thức, con người mới có thể thực sự biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa cách xứng đáng ... tuy nhiên sự kiện này không thể xảy ra vì phẩm giá của cá nhân, nhưng là ân sủng từ trời cao ban xuống ... Theo ý nghĩa này, Thánh Linh là Đấng được ân ban và là Hồng Ân” (Summa Theol., I, q. 38, a. 1).
Chúng ta chấm dứt loạt bài giáo lý về Ngôi Chúa Thánh Linh, Tình Yêu và Hồng Ân của đức yêu thương đời đời, bằng lời giải thích tuyệt vời dẫn thượng của Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần. Tuy nhiên chúng ta sẽ có cơ hội khác nữa để trình bày tầm quan trọng của giáo huấn này đối với cuộc sống tinh thần.
Buổi gặp chung ngày 21 tháng Mười Một, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
60. Chúa Thánh Linh là Linh Hồn của Giáo Hội
Hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới theo chu kỳ về Chúa Thánh Linh. Trong chu kỳ này cha ước mong thính giả gần xa lưu ý tới những chân lý căn bản của Kitô Giáo về Chúa Thánh Linh. Chúng ta đã thấy Tân Ước, được Cựu Ước chuẩn bị, cho phép chúng ta tiến tới nhận biết Chúa Thánh Linh là một Ngôi của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một chân lý vi diệu về hai địa hạt ý nghĩa nội tại và ảnh hưởng ngoại tại của chân lý này đối với đời sống của chúng ta. Chúng ta có thể nói chân lý này không chỉ dành để “sống”, mà còn là toàn thể mạc khải tóm gọn trong kinh Tin Kính. Thiên Chúa đã mạc khải và ban Chúa Thánh Linh cho chúng ta một cách đặc biệt ngõ hầu Ngài là ánh sáng sự sống soi đường chỉ lối cho chúng ta, cho toàn thể Giáo Hội và cho tất cả mọi người được kêu gọi nhận biết Ngài.
Một cách đặc biệt chúng ta đề cập về Chúa Thánh Linh là căn nguyên sự sống của Giáo Hội. Trước kia trong loạt bài giáo lý về Kitô học, chúng ta đã thấy từ khởi đầu sứ mệnh thiên sai, Chúa Giêsu quy tụ các môn đệ chung quanh Ngài. Ngài đã chọn mười hai người, trong số những người theo Ngài, làm tông đồ. Ngài trao cho ông Phêrô đứng đầu, làm nhân chứng và đại diện Ngài (tc. Mt 16:18). Buổi chiều trước ngày Chúa Kitô hy sinh trên khổ giá, Ngài lập Nhiệm Tích Thánh Thể, Ngài truyền lệnh và ban quyền cho các tông đồ cử hành Nhiệm Tích Mình và Máu Thánh để tưởng nhớ Ngài (tc. Lc 22:19); 1 Cor 11:24-25). Sau khi phục sinh Chúa ban cho các tông đồ quyền tha tội (tc. Jn 20:22-23) và truyền cho các ông rao giảng tin mừng khắp thế giới (tc. Mt 16:15).
Chúng ta có thể nói tất cả mọi điều đó bao gồm trong lời loan báo và hứa Chúa Thánh Linh ngự đến xảy ra vào ngày Lễ Hiện Xuống, như Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật (2:1-4).
Công Đồng Vatican II cho chúng ta nhiều văn bản giá trị về tầm quan trọng có tính cách quyết định của Lễ Hiện Xuống, thường được gọi là sinh nhật Giáo Hội trước mắt hoàn vũ. Chúng ta đọc trong Hiến Chế Dei Verbum (Tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa): “Bằng chứng tích của Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh minh xác Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời” (số 4). Vì thế có sự liên kết mật thiết giữa Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Linh trong công cuộc cứu độ.
Hiến Chế Lumen Gentium (Tín lý về Giáo Hội) dạy: “Ngài là Thánh Linh ban sự sống, là mạch nước trào dâng lên sự sống vĩnh cửu” (Jn 4:47; 7:38-39). Qua Thánh Linh, Chúa Cha ban sự sống cho những kẻ đã chết vì tội, đợi đến khi phục sinh thân xác phải chết của họ trong Chúa Kitô” (số 4). Vì thế nhờ quyền năng và hành động của Thánh Linh mà Chúa Kitô đã phục sinh, nên những người kết hiệp với Chúa Kitô cũng sẽ được phục sinh. Sự phục sinh này là giáo huấn của thánh Phaolô mà Công Đồng đã nhìn nhận (tc. Rom 8:10-11).
Công Đồng nói thêm: khi ngự xuống trên các tông đồ, Chúa Thánh Linh sinh ra Giáo Hội (tc. LG 19) như được mô tả trong Tân Ước và đặc biệt trong thư Thánh Phaolô là Nhiệm Thể Chúa Kitô: “Con Thiên Chúa ... do việc thông ban Thánh Linh của Ngài, đã làm cho những người được kêu gọi qui tụ từ muôn dân nước trở nên anh chị em của Ngài, cách huyền nhiệm trở nên những phần Thân Thể của chính Ngài” (LG 7).
Truyền thống Kitô Giáo dùng chủ đề của Thánh Phaolô về Nhiệm Thể Chúa Kitô (Ecclesia Corpus Christi), mà nguyên lý ban sự sống của nhiệm thể đó là Chúa Thánh Linh. Truyền thống về Nhiệm Thể Chúa Kitô kết luận bằng một câu tuyệt vời: Chúa Thánh Linh là “linh hồn” của Giáo Hội. Ở đây chúng ta chỉ cần trích dẫn lời Thánh Augustine: “thần khí của chúng ta, tức là linh hồn chúng ta, tương quan với các chi thể khác của thân xác chúng ta; cũng vậy, Chúa Thánh Linh ở trong các chi thể của Chúa Kitô, nghĩa là ở trong Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội” (Sermon 269, 2; PL 38, 1232). Khi nói Chúa Kitô là đầu Nhiệm Thể Giáo Hội, Thánh Thomas Aquinas ví Chúa Thánh Linh như trái tim, vì “Ngài ban sự sống và kết hiệp Giáo Hội cách vô hình,” y hệt như trái tim “hoạt động trong nội tạng con người” (Summa Theol., III, q. 8, a. I, ad 3).
Chúa Thánh Linh là “linh hồn” và là “trái tim của Giáo Hội”. Nhận định ấy là một khía cạnh tuyệt vời trong Truyền Thống mà chúng ta cần đào sâu hơn.
Theo các thần học gia giải thích thì cách nói: “Chúa Thánh Linh làm sinh động Giáo Hội” được hiểu là một so sánh tương tự. Chúa Thánh Linh không phải là “hình thức chủ thể” của Giáo Hội như linh hồn đối với thân xác, cùng với linh hồn thân xác tạo thành một bản thể là con người. Chúa Thánh Linh là nguyên lý linh hoạt (sinh động), tuy thân gần mà lại siêu việt của Giáo Hội. Ngài là Đấng ban sự sống và nhất quán tính cho Giáo Hội, theo tiến trình của nguyên tắc hữu hiệu (efficient cause), có nghĩa Chúa Thánh Linh là tác giả và là người cổ võ sự sống thần linh trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Công đồng lưu ý tới điều này và nói: “để chúng ta luôn luôn được canh tân trong Chúa Thánh Linh (tc. Eph 4:23), Chúa Kitô đã chia sẻ với chúng ta Thánh Linh của Ngài là Đấng duy nhất hiện hữu nơi Đầu và nơi các chi thể, làm sống động, liên kết và chuyển động toàn thân. Chúa Thánh Linh làm việc đó theo cách mà các Giáo Phụ đã ví công việc của Ngài như nguyên lý sự sống, tức là linh hồn, hoàn thành nơi thân xác con người” (LG 7).
Cũng như nhận định trên, chúng ta có thể so sánh giữa toàn thể tiến trình hình thành Giáo Hội, đã sẵn có trong mọi họat động thiên sai của Chúa Kitô nơi trần gian, và việc tạo dựng nhân loại theo Sách Sáng Thế, và đặc biệt là việc hà “sinh khí” vào con người mà do đó “con người trở nên sinh linh” (St 2:7). Từ ngữ sinh khí được dùng trong bản văn tiếng Hebrew (Do Thái) là nefesh (được làm sinh động do hơi thở ban sự sống). Nhưng ở một đoạn khác trong Sách Sáng Thế, hơi thở của sinh linh được gọi là ruah, tức là “thần khí, thần linh” (St 6:17). Theo điều so sánh tương tự này thì Chúa Thánh Linh có thể kể là hơi thở sống còn của “thụ tạo mới” thể hiện trong Giáo Hội.
Trong một đoạn khác, Công Đồng cho biết “Chúa Thánh Linh ngự đến vào ngày Lễ Ngũ Tuần để Ngài tiếp tục thánh hóa Giáo Hội, và như thế, thánh hóa tất cả mọi người tín hữu để họ có thể nhờ Chúa Kitô trong một Thánh Linh duy nhất mà đến với Chúa Cha (tc. Eph 2:18)” (LG 4). Sự thánh thiện là hình thức thứ nhất và căn bản của sự sống mà Chúa Thánh Linh, tựa như “linh hồn của sự sống,” thông ban cho Giáo Hội: sự thánh thiện theo gương Chúa Kitô “Đấng (mà) Chúa Cha đã thánh hiến và phái đến trần gian” (Jn 10:36). Sự thánh thiện tạo thành cốt tính của Giáo Hội như là Nhiệm Thể Chúa Kitô, mà Ngài ban cho sự sống và chia sẻ Thánh Linh của Ngài. Sự thánh thiện đem lại sức khỏe tinh thần cho Nhiệm Thể (Chúa Kitô). Sự thánh thiện cũng xác định vẻ sang cả tinh thần của Giáo Hội, đường nét duyên dáng vượt quá mọi mỹ miều tự nhiên và nghệ thuật; một vẻ cao sang siêu nhiên trong đó vẻ đẹp tuyệt vời của chính Thiên Chúa được phản ánh một cách trực tiếp và căn cốt hơn sắc đẹp của bất cứ loài thụ tạo nào, đặc biệt vì đó là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Trong bài giáo lý khác, chúng ta sẽ trở lại chủ đề sự thánh thiện của Giáo Hội.
Chúa Thánh Linh là “linh hồn Giáo Hội” theo ý nghĩa: Ngài chiếu tỏa ánh sáng thần linh trên tất cả mọi tư tưởng của Giáo Hội và “hướng dẫn tới chân lý toàn vẹn,” như lời Chúa Kitô loan báo tại căn phòng trên lầu: “Khi Thánh Linh chân lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới chân lý toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì (không nói tư kiến của Ngài), nhưng chỉ nói điều Ngài nghe ... Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:13,15).
Như vậy, nhờ linh quang của Chúa Thánh Linh hoạt động mà Giáo Hội loan báo chân lý mạc khải và làm cho đức tin bám rễ sâu vào mọi tầng lớp trong Nhiệm Thể Chúa Kitô: giữa các tông đồ, giữa những người kế thừa sứ vụ của các ngài, và liên quan đến “cảm thức đức tin” của toàn thể tín hữu, mà trong số đó là những người giảng dạy giáo lý, các thần học gia và những tư tưởng gia Kitô hữu khác. Tất cả đều được và phải được làm cho sinh động bởi Thánh Linh.
Chúa Thánh Linh cũng là nguồn cội tất cả mọi năng động lực trong Giáo Hội, dù chúng ta nói đến việc Giáo Hội phải làm chứng về Chúa Kitô trước mặt thế gian, hoặc nói về việc rao giảng thông điệp Tin Mừng. Trong Phúc Âm theo Thánh Luca, khi Chúa Kitô phục sinh nói với các tông đồ về Chúa Thánh Linh ngự đến, Ngài nhấn mạnh khía cạnh này: “Thầy sẽ gởi xuống cho anh em điều Cha của Thầy đã hứa. Anh em hãy ở lại trong thành cho tới khi anh em nhận được tràn đầy (được mặc) sức mạnh từ trời cao” (Lc 24:49). Phần tường thuật lời Chúa Giêsu trong Sách Công Vụ Tông Đồ liên quan đến Chúa Thánh Linh và sức mạnh còn rõ ràng hơn nữa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên anh em và anh em sẽ là chứng nhân của Thầy ...” (Cv 1:8). Từ ngữ Hy Lạp nói về sức mạnh cả trong Phúc Âm và Công vụ Tông Đồ là dynamis (dynamism = năng động lực, sức xung động). Từ ngữ dynamis nói đến năng lực siêu nhiên mà người ta cần phải cầu xin hơn hết. Công Đồng Vatican II dạy thêm: Chúa Thánh Linh “ở trong Giáo Hội và nơi tâm hồn các tín hữu, cũng như trong đền thờ. Nơi các tín hữu, Ngài cầu nguyện thay cho họ và làm chứng thật sự rằng họ là con cái được (Thiên Chúa) thừa nhận” (LG 4). Cũng trong văn bản đó, Công Đồng kể ra lời Thánh Phaolô (tc. Gal 4:6, Rom 8:15-16,26). Chúng ta cần lưu ý đặc biệt đến giáo huấn trong Thư gởi giáo đoàn Roma: “Thánh Linh giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng, nhưng chính Thánh Linh cầu bầu cho chúng ta bằng những lời than van không thể nào diễn tả được” (Rom 8:26).
Để kết luận tất cả mọi điều chúng ta đã nói từ trước tới nay, chúng ta cùng nhau đọc lại một văn bản ngắn khác của Công Đồng nói về Chúa Thánh Linh không ngừng canh tân Giáo Hội và “hướng dẫn Giáo Hội tới kết hiệp toàn hảo với Phu Quân của mình. Cả Thánh Linh và Hiền Thê đều nói với Chúa Giêsu, ‘Lạy Chúa, xin hãy đến!’ (Kh 22:7)” (LG 4). Dẫn chiếu trên đây cũng phản ánh lời Thánh Irenaeus (Adv. Haer. III, 14, 1: PG, 7, 966 B), ngài truyền lại cho chúng ta niềm tin chắc chắn của các Giáo Phụ tiên khởi. Thánh Phaolô cũng đã loan báo niềm tin này khi ngài đoan chắc rằng các tín hữu được giải phóng khỏi ách nô lệ “để phụng sự trong tinh thần mới” (Rom 7:6). Toàn thể Giáo Hội sống theo tinh thần mới này và tìm thấy trong Chúa Thánh Linh cội nguồn (cho sự) canh tân không ngừng và hiệp nhất Giáo Hội. Sự kiện này xảy ra nhờ quyền năng Thánh Linh Đấng là Tình Yêu ban sự sống và hiệp nhất, Ngài uy dũng hơn tất cả mọi sự yếu đuối và tội lỗi của nhân loại.
Buổi gặp chung ngày 28 tháng Mười Một, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
61. Thánh Linh trong Việc Hiệp Nhất
Như chúng ta đã thấy trong những bài giáo lý trước, theo truyền thống Kitô hữu, Chúa Thánh Linh là linh hồn Giáo Hội được xây dựng trên giáo huấn của Chúa Kitô và các tông đồ.
Nhưng chúng ta cần phải nói ngay lời Thánh Phaolô, khi ngài nêu lên điểm tương đồng Giáo Hội như là một thân thể con người, đã nhấn mạnh “trong chỉ một Thánh Linh tất cả chúng ta được chịu Phép Rửa để trở nên một thân thể, ... và tất cả chúng ta đều uống chung một Thánh Linh” (1 Cor 12:13).
Nếu Giáo Hội giống như một thân thể thì Chúa Thánh Linh tựa như linh hồn của thân thể đó, nghĩa là nguyên nhân sự sống thần linh của thân xác đó. Mặt khác, nếu vào ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh thiết lập Giáo Hội bằng việc ngự xuống trên cộng đồng tiên khởi tại Jerusalem (tc. Cv 1:13), từ ngày đó trở đi và đối với mọi thế hệ sau này gia nhập Giáo Hội, Chúa Thánh Linh không thể nào không là nguyên lý và nguồn hiệp nhất, như linh hồn đối với thân xác con người.
Theo những văn bản Phúc Âm và thư của Thánh Phaolô, chúng ta nói đây là vấn đề nhất quán trong đa nguyên. Thánh Tông Đồ mô tả điều này một cách rõ ràng trong Thư I viết cho giáo đoàn tại Corinth: “Mặc dầu chỉ một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể đó đều thuộc về một thân thể, dẫu nhiều chi thể, nhưng chỉ có một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy” (1 Cor 12:12).
Khi đề cập đến tiền đề bản thể học này về nhất quán tính của Nhiệm Thể Chúa Kitô được thừa nhận, huấn dụ trong Thư gửi tín hữu tại Ephesus giải thích: “Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thánh Linh đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Eph 4:3). Rõ ràng đây không phải là vấn đề về hiệp nhất có tính cách máy móc, cũng không phải là vấn đề thuần túy về kết hiệp hữu cơ (trong mọi sinh vật), mà đúng ra là vấn đề về hiệp nhất tinh thần song hành với vấn đề đạo đức luân lý. Theo Thánh Phaolô, hòa bình là kết quả việc hòa giải nhờ thập giá Chúa Kitô, “vì nhờ Ngài đôi bên chúng ta đến được với Chúa Cha trong một Thánh Linh duy nhất” (Eph 2:18).
Trong văn bản này từ ngữ “đôi bên” nói đến những người từ Do Thái giáo và dân ngoại trở lại theo Kitô giáo. Thánh Tông Đồ mô tả và bảo đảm rằng: cuối cùng họ cũng phải làm hòa với Thiên Chúa, Đấng làm cho mọi người nên một dân, một thân thể trong một Thánh Linh (tc. Eph 2:11-18). Tuy nhiên, lập luận này cũng đúng với những người tin Chúa Kitô thuộc mọi dân tộc, quốc gia và văn hóa khác nhau. Cùng với Thánh Phaolô, chúng ta có thể nói về tất cả những người đó điều mà chúng ta tìm thấy trong phần kế tiếp của văn bản: “Vậy, như thế, anh chị em không còn phải là người xa lạ hoặc tạm trú nhưng cùng đồng hương với mọi người thuộc dân thánh, và là người nhà Thiên Chúa, vì được xây dựng trên nền móng là các tông đồ và ngôn sứ, với chính Chúa Giêsu Kitô là tảng đá góc tường.
Nhờ Ngài toàn thể công trình kiến trúc ăn khớp khăng khít với nhau và vươn lên thành đền thánh trong Chúa; trong Ngài anh chị em (những người ngoại giáo cùng với những anh chị em từ Do Thái giáo cải đổi theo Chúa Kitô), nhờ Thánh Linh, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự” (Eph 2:19-22). “Trong Ngài (Chúa Kitô) mọi kiến trúc vươn lên.” Vì thế có năng động tính trong việc hiệp nhất Giáo Hội, mà tính cách hiệp nhất này hướng về sự thông phần trọn vẹn hơn trong nhất quán tính tam vị của chính Thiên Chúa. Nhất quán tính hiệp thông của Hội Thánh là hình ảnh việc hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, là thượng đỉnh tối cao mà Giáo Hội hằng hướng tới. Lời cầu chúc mà vị chủ tế chào các tín hữu lúc mở đầu Thánh Lễ theo phụng vụ canh tân của Công Đồng Vatican II, sử dùng nguyên văn lời Thánh Phaolô sau đây: “Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và tình yêu của Chúa Cha và tình thông hiệp của Chúa Thánh Linh ở với tất cả anh chị em” (2 Cor 13:13).
Những lời này chứa đựng chân lý nhất quán tính trong Chúa Thánh Linh là sự hiệp nhất của Giáo Hội, mà Thánh Augustine khuyến cáo như sau: “Việc thông truyền về hiệp nhất của Giáo Hội ... có thể nói chẳng khác gì một công trình của Chúa Thánh Linh, với sự chia sẻ của Chúa Cha và Chúa Con, vì chính Chúa Thánh Linh là sự thông hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con ... Chúa Cha và Chúa Con cùng chung Chúa Thánh Linh, vì Ngài là Thánh Linh của cả Ngôi Cha và Ngôi Con” (Sermon 71, 28, 33, PL 38, 463-464).
Khái niệm về việc kết hợp Tam Vị trong Chúa Thánh Linh là nguồn hiệp nhất của Giáo Hội dưới hình thức “hiệp thông” là một trong những điểm chính yếu của môn Giáo Hội học. Công Đồng Vatican II đã nhiều lần minh xác điều này. Chúng ta có thể kể những lời kết thúc đoạn thứ bốn Hiến Chế Lumen Gentium (Tín lý về Giáo Hội), dành riêng nói về Chúa Thánh Linh Đấng thánh hóa Giáo Hội, lời này trích từ bản văn danh tiếng của Thánh Cyprian thành Carthage (De Orat. Dominica, 23: PL, 4, 436): “Như thế Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một ‘dân tộc’ được làm cho nên một nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (LG 4; đọc thêm LG 9; GS 24, UR 2).
Chúng ta cũng cần ghi chú, theo lời khuyên của Thánh Phaolô mà chúng ta vừa mới nghe, sự hiệp thông Giáo Hội được biểu hiện sẵn sàng trong việc duy trì hiệp nhất và kiên trì, dầu rằng tính cách đa dạng và khác biệt giữa các cá nhân, chủng tộc, quốc gia và văn hóa.
Vì Chúa Thánh Linh là cội nguồn hiệp nhất, nên Ngài dạy thông cảm và tha thứ (hoặc ít nhất là dung thứ, nhường nhịn) cho nhau, chỉ dẫn cho người này thấy sự phong phú tinh thần của những người kia. Chúa Thánh Linh dạy cách chia sẻ những ân sủng tinh thần với nhau ngõ hầu kết hiệp mọi người chứ không phân rẽ họ. Như lời Thánh Tông Đồ nói: “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng; chỉ một Chúa, một đức tin, một Phép Rửa” (Eph 4:4-5).
Trên bình diện thiêng liêng và đạo đức luân lý, vẫn còn những phản tác động sâu sắc về phương diện tâm lý và xã hội, thì sức mạnh kết hiệp trên hết là tình yêu được chia sẻ và thực hành theo lệnh Chúa Giêsu truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Jn 13:34; 15:12). Theo Thánh Phaolô thì tình yêu này là hồng ân siêu đẳng của Chúa Thánh Linh (tc. 1 Cor 13:13).
Chẳng may, sự hiệp nhất trong Chúa Thánh Linh là sự kiện đặc thù đối với Nhiệm Thể Chúa Kitô lại phải gia tăng đương đầu với tội lỗi. Suốt nhiều thế kỷ, các Kitô hữu đã trải qua nhiều chia rẽ phân hóa, mà trong đó có một trường hợp trầm trọng và lâu dài. Những chia rẽ phân hóa này được giải thích: “nhưng không chính đáng” là do sự yếu đuối và hữu hạn theo bản chất hay sa ngã của chúng ta. Những chia rẽ này vẫn tồn tại và cũng bộc lộ nơi các thành viên và cả trong hàng ngũ lãnh đạo của Giáo Hội nữa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải tuyên dương lòng kiên tín của chúng ta, căn cứ vào sự vững chắc của đức tin và kinh nghiệm lịch sử, Chúa Thánh Linh không ngừng hoạt động để xây dựng sự hiệp nhất và hiệp thông, bất chấp sự yếu đuối của con người. Đây là lòng kiên tín mà Công Đồng Vatican II mô tả trong Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio (về Hiệp Nhất), khi Công Đồng nhìn nhận rằng “ngày nay, tại nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Linh thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhắm tiến tới hoàn toàn hiệp nhất theo ý muốn của Chúa Kitô đang được thể hiện bằng kinh nguyện, lời nói và hành động” (UR 4), Một thân thể, một Thánh Linh (Unum corpus, unus Spiritus). Khuynh hướng chân thành này hướng về hiệp nhất Nhiệm Thể Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Linh mà có, và chỉ nhờ công trình của Ngài mà lý tưởng hiệp nhất có thể hoàn tất được.
Chúa Thánh Linh đem lại cho Giáo Hội sự hiệp nhất các Kitô hữu, tinh thần cởi mở khắp hoàn vũ cho toàn thể gia đình nhân loại, và là nguồn hiệp thông toàn cầu. Trên bình diện tôn giáo, hoạt động truyền giáo của Giáo Hội từ thời các tông đồ tới nay phát xuất từ nguồn gốc vi diệu và thâm sâu này. Truyền thống Giáo Phụ cho biết từ những thế kỷ đầu sứ mệnh truyền giáo đã được thực hiện cách cẩn trọng và hiểu biết về những “hạt giống của Lời Chúa (semina Verbi)” chứa đựng trong nhiều nền văn hóa khác nhau và nơi nhiều tôn giáo ngoài Kitô Giáo, mà Công Đồng Vatican II đã dành trọn Tuyên Ngôn Nostra Aetate (Tuyên ngôn về Liên Lạc của Giáo Hội với các Tôn giáo ngoài Kitô Giáo) để trình bày vấn đề này (xin đọc kỹ số 2 về các Giáo Phụ thời xưa, gồm trong Apologia của Thánh Justin, 10. Cũng đọc thêm Ad Gentes, 14; Gaudium et Spes, 22).
Sự việc này xảy ra là vì Thánh Linh “muốn thổi đi đâu thì thổi” (tc. Jn 3:8) là nguồn mạch ơn linh ứng đối với mọi điều chân thật, tốt lành và tốt đẹp, theo câu nói đầy ý nghĩa của một tác giả ẩn danh vào thời Đức Giáo Hoàng Damasus (366-384): “Mọi chân lý, bất kể người nào nói điều đó, đều phát xuất từ Chúa Thánh Linh” (tc. PL, 191, 1651).
Thánh Thomas đã nhiều lần nhắc lại ý nghĩa của câu nói dẫn thượng trong các tác phẩm của ngài, và trong Tổng Luận Thần Học (Summa Theology), ngài bình luận sự kiện trên như sau: “Mọi chân lý, bất kể do người nào nói ra, đều phát xuất từ Chúa Thánh Linh Đấng tuôn đổ ánh sáng tự nhiên và chuyển động người ấy hiểu và diễn tả chân lý đó.” Bởi thế, theo lời Thánh Thomas Aquinas, Thánh Linh giúp đỡ bằng việc ban thêm ân sủng cho bản chất tự nhiên, đó là ơn “hiểu biết và diễn tả một số chân lý, đặc biệt là các chân lý thuộc về đức tin, mà Thánh Tông Đồ nhắc tới khi ngài minh xác ‘không một người nào có thể tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa nếu không nhờ Chúa Thánh Linh’ (1 Cor 12:3)” (I-II, q. 109, a. 1, ad. 1).
Thấu triệt và đem ra ánh sáng tất cả sự phong phú các chân lý và giá trị hiện diện trong cơ cấu các nền văn hóa là nhiệm vụ căn bản của hoạt động tông đồ truyền giáo, được nuôi dưỡng trong Giáo Hội bởi Thánh Linh Chân Lý Đấng là Tình Yêu hướng dẫn người ta tới hiểu biết toàn vẹn hơn trong bác ái.
Chúa Thánh Linh trút đổ chính mình vào Giáo Hội bằng Tình Yêu, mà Tình Yêu ấy là uy lực cứu độ có khuynh hướng kết hiệp lại với nhau tất cả mọi người và mọi tạo vật. Sau cùng uy lực tình yêu này chiến thắng tất cả mọi đối kháng cho dù, như chúng ta biết rất rõ từ kinh nghiệm và lịch sử, uy lực này phải chiến đấu chống lại tội lỗi, và mọi thứ hiện hữu nơi con người đối nghịch với tình yêu, tức là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét và đố kị có tính cách hủy diệt. Nhưng Thánh Tông Đồ đoan chắc với chúng ta rằng “tình yêu xây dựng (mọi sự)” (1 Cor 8:1). Việc xây dựng sự hiệp nhất dù cũ hay mới cũng sẽ tùy thuộc vào tình yêu.
Buổi gặp chung ngày 5 tháng Mười Hai, 1990
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
62. Chúa Thánh Linh Là Nguồn Căn Sự Thánh Thiện
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh đến mối quan thiết vẫn tồn tại trong Giáo Hội giữa ơn Chúa Thánh Linh với ơn gọi và khát vọng nên thánh của người tín hữu: “Chúa Kitô là Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh được ca tụng là ‘Đấng thánh duy nhất,’ yêu thương Giáo Hội là hiền thê của mình, và đã hiến thân để thánh hóa Giáo Hội (tc. Eph 5:25-26).
Ngài kết hiệp với Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài và ban cho Giáo Hội dư đầy ơn Thánh Linh để vinh danh Thiên Chúa. Bởi thế, tất cả mọi người trong Giáo Hội ... đều được kêu gọi nên thánh ... Sự thánh thiện của Giáo Hội luôn luôn biểu lộ và phải hiển lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Linh đã sản sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện này biểu thị dưới nhiều hình thức trong đời sống nội tâm những người đang cố gắng vươn tới đức ái trọn hảo, để cảm hóa người khác ...” (LG 39).
Nguồn căn sự thánh thiện là một khía cạnh căn bản khác về công trình của Chúa Thánh Linh trong Giáo Hội. Chẳng hạn như theo văn kiện Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II dẫn thượng, thì sự thánh thiện của Giáo Hội khởi nguồn trong Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng trở nên con người do công trình của Chúa Thánh Linh và sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria rất thánh.
Sự thánh thiện của Chúa Giêsu khi bẩm thai và giáng sinh do quyền năng Chúa Thánh Linh thông hiệp mật thiết với sự thánh thiện của Đức Maria, Đấng mà Thiên Chúa đã chọn làm Mẹ. Công Đồng ghi chú thêm: “Vì thế không lạ gì khi các Giáo Phụ đã thường ca tụng Mẹ Thiên Chúa là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, chẳng khác gì một tạo vật mới do Chúa Thánh Linh uốn nắn và tác thành” (LG 56).
Tuyên ngôn trên đây là nhận thức đầu tiên và cao sang nhất về sự thánh thiện trong Giáo Hội, qua quyền năng Chúa Thánh Linh, Đấng là Thánh và là Đấng-Thánh-Hóa. Sự thánh thiện của Đức Maria hoàn toàn quy hướng thẳng vào sự thánh thiện tối cao của nhân tính Chúa Kitô, Đấng được Chúa Thánh Linh thánh hiến và đổ đầy ân sủng từ lúc khởi đầu cuộc sống trần thế cho tới lúc kết thúc vinh hiển khi Chúa Giêsu đã tự khải chính Ngài là “Đấng đã từ cõi chết phục sinh trở lại nhờ Thánh Linh, Ngài được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rom 1:4).
Vào ngày Lễ Hiện Xuống, sự thánh thiện của Giáo Hội chiếu sáng không phải chỉ riêng Đức Maria mà còn có các tông đồ và môn đệ cùng hiện diện với Người “tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (Cv 2:4). Từ thời điểm Lễ Hiện Xuống cho tới tận thế, Chúa Kitô luôn luôn là nguồn sung mãn sự thánh thiện. Chúng ta nhận được mọi ân sủng (tc. Jn 1:16) mà Ngài hằng ban phát cho tất cả những người rộng mở tâm hồn đón nhận quyền năng Chúa Thánh Linh qua giáo huấn của các tông đồ.
Trong bài giảng ngày Lễ Hiện Xuống, Tông Đồ Phêrô nói: “Anh chị em, tất cả mọi người, hãy ăn năn thống hối và lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để anh chị em được ơn tha thứ tội lỗi, và anh chị em sẽ nhận được hồng ân Chúa Thánh Linh” (Cv 2:38).
Ngày Lễ Hiện Xuống là khởi đầu lịch sử sự thánh thiện Kitô hữu mà cả người Israel và dân ngoại đều được kêu gọi sống theo. Thánh Phaolô viết, hai bên đều có thể “nhờ Chúa Kitô trong một Thánh Linh mà đến với Chúa Cha” (Eph 2:18). Như đã đề cập trong bài giáo lý trước, tất cả chúng ta đều được kêu gọi trở nên “đồng dân với các thánh nhân và gia nhân của Thiên Chúa, để kiến tạo Giáo Hội trên nền tảng các tông đồ và ngôn sứ, mà chính Chúa Giêsu Kitô là tảng đá góc tường. Nhờ Ngài toàn thể kiến trúc được kết chặt với nhau và vươn lên thành đền thánh trong Chúa, nhờ Thánh Linh mà trở nên nơi Thiên Chúa ngự” (Eph 2:19-22).
Thánh Phaolô ưu ái khái niệm đền thờ này. Trong một đoạn khác ngài hỏi: “Anh chị em không biết anh chị em là đền thờ Thiên Chúa và Chúa Thánh Linh ở trong anh chị em sao?” (1 Cor 3:16).
Và ở một chỗ khác, ngài nói: “Thân xác anh chị em là đền thờ Chúa Thánh Linh” (1 Cor 6:19).
Rõ ràng trong bối cảnh các Thư gửi giáo đoàn tại Conrinth và Ephesus thì đền thờ không phải chỉ là một kiến trúc vật chất. Đền thờ là hình ảnh tiêu biểu sự thánh thiện mà Chúa Thánh Linh tạo ra nơi những người sống trong Chúa Kitô và liên kết với Giáo Hội. Và Giáo Hội là “nơi” dành cho sự thánh thiện này.
Trong Thư I của Thánh Phêrô, ngài cũng dùng ngôn từ tương tự như thế và cho chúng ta cũng giáo huấn đó. Khi nói với “các tín hữu bị phân tán” giữa các dân ngoại, Thánh Phêrô nhắc các tín hữu đó nhớ họ đã được “Thiên Chúa Cha tiên lượng và tuyển chọn, những người được Thánh Linh thánh hóa để vâng phục Chúa Giêsu Kitô và được máu Ngài phun tưới” (1 Pet 1:1-2).
Nhờ uy lực thánh hóa trong Chúa Thánh Linh mà tất cả đều “tựa như những tảng đá sống động, nhờ Chúa Giêsu Kitô, đã xây dựng thành tòa nhà thiêng liêng để là hàng tư tế thánh thiện hiến dâng lễ phẩm đáng được Thiên Chúa chấp nhận” (1 Pet 2:5).
Giáo huấn trên đây của Thánh Phêrô là mối liên kết có ý nghĩa đặc biệt mà Thánh Phaolô nêu lên giữa việc thánh hoá và việc hiến dâng “của lễ thiêng liêng” đích thực là chia sẻ chính hy lễ của Chúa Kitô và chức tư tế của Ngài. Sự việc trên là một trong những chủ đề trong Thư gửi tín hữu Do Thái.
Nhưng cũng trong Thư gửi tín hữu Roma, thánh Phaolô nói về “lễ phẩm, được Chúa Thánh Linh thánh hoá, đáng được Thiên Chúa chấp nhận”; nhờ Phúc Âm mà con người trở nên lễ phẩm đó (tc. Rom 15:16). Và trong Thư II gửi tín hữu tại Thessalonica, Thánh Phaolô khuyên nhủ người đọc tạ ân Thiên Chúa vì “Ngài (Thiên Chúa) đã chọn anh chị em làm hoa trái đầu mùa ơn cứu độ qua sự thánh hóa của Thánh Linh và tin vào chân lý” (tc. 2 Thess 2:13).
Ý thức này là dấu chỉ chung của các Kitô hữu tiên khởi về hành động của Chúa Thánh Linh Đấng là tác giả sự thánh thiện trong chính họ và trong Giáo Hội. Các tín hữu thời đó biết Chúa Thánh Linh, Đấng mà Thiên Chúa đã ban và làm cho họ trở nên đền thờ Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã khẳng định và minh thị nhiều lần rằng Chúa Thánh Linh thánh hóa nhân loại và tạo nên sự hiệp thông Giáo Hội giữa các tín hữu là những người chia sẻ sự thánh thiện của Chúa Thánh Linh. Những người “đã được tẩy rửa, thánh hóa, được công chính hóa nhờ danh Chúa Giêsu Kitô” trở nên thánh thiện “trong Thánh Linh (của) Thiên Chúa chúng ta!” (1 Cor 6:11).
“Người nào kết hiệp với Chúa thì nên một tinh thần với Ngài” (1 Cor 6:17).
Và sự thánh thiện này trở nên việc đích thực thờ phượng Thiên Chúa hằng sống “thờ phượng trong Thánh Linh Thiên Chúa” (Phil 3:3). Giáo huấn trên đây của Thánh Phaolô hợp với những lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm theo Thánh Gioan về “những người tôn thờ đích thực” những người “tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý ... Chúa Cha tìm kiếm những người tôn thờ Ngài như thế” (Jn 4:23-24).
Chúa Kitô là cội nguồn “việc tôn thờ trong tinh thần và chân lý”, Ngài thể hiện và làm cho sống động toàn thể thiên ý trong Chúa Thánh Linh. Chính Chúa Giêsu nói lúc Tiệc Ly: “Ngài (Chúa Thánh Linh) sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy và nói cho anh em biết” (Jn 16:14).
Toàn thể việc tôn vinh (opus laudis) trong Chúa Thánh Linh là “việc thờ phượng đích thực” mà Chúa Con Đấng là Ngôi Lời Nhập Thể dâng lên Chúa Cha, và nhờ Chúa Thánh Linh mà các tín hữu chia sẻ “việc thờ phượng trong” Ngôi Lời Nhập Thể. Vì thế việc thờ phượng đó cũng là tôn vinh Chúa Con trong Chúa Cha. Sự việc mà các tín hữu và Giáo Hội chia sẻ trong Chúa Thánh Linh cũng xảy ra dưới tất cả mọi dạng thức thánh hóa: thanh tẩy khỏi tội lỗi (tc. 1 Pet 4:8), soi sáng trí khôn (tc. Jn 14:26), tuân giữ các giới răn (tc. Jn 14:23), kiên trì trong hành trình tới sự sống đời đời (tc. Eph 1:13-14; Rom 8:14-16), và lắng nghe điều chính Chúa Thánh Linh “nói với Hội Thánh” (tc. Kh 2:7).
Khi nghiên cứu công việc thánh hóa này trong giáo lý về kinh Tin Kính các thánh tông đồ, Thánh Thomas Aquinas nhận thấy dễ dàng chuyển từ minh xác về Chúa Thánh Linh sang minh định về “Hội Thánh Công Giáo.”
Ngài viết: “Như chúng ta thấy một người có thân xác và linh hồn, và vẫn còn có nhiều chi thể khác nhau, thì Giáo Hội Công Giáo cũng vậy là một thân thể duy nhất hợp thành bởi nhiều chi thể khác nhau. Chúa Thánh Linh là linh hồn đem lại sự sống cho thân xác này (Giáo Hội).
Và vì thế, sau lời tuyên xưng của chúng ta về Chúa Thánh Linh, chúng ta được dạy phải tin theo Giáo Hội Công Giáo, như kinh Tin Kính tuyên xưng. Ngày nay ‘Giáo Hội’ nghĩa là cộng đồng; vì thế nên Giáo Hội là cộng đồng các tín hữu, và mỗi Kitô hữu là một thành viên của Giáo Hội mà Giáo Hội vô cùng thánh thiện ... nhờ thanh tẩy trong máu Chúa Kitô và xức dầu bằng ân sủng Chúa Thánh Linh, nhất là Chúa Ba Ngôi ngự trong người tín hữu và nhờ việc kêu cầu danh Thiên Chúa trong đền thờ linh hồn mình mà (người tín hữu) không bao giờ được xúc phạm đền thờ đó (tc. 1 Cor 3:17)” (In Symb. Apost., a. 10).
Lời giải thích trên đây dựa trên sự thánh thiện mà Chúa Thánh Linh là nguồn mạch, Ngài cùng đồng hành với Giáo Hội và các tín hữu suốt cuộc lữ hành trần thế hướng về nơi an nghỉ đời đời. Vì thế trong kinh Tin Kính, các chủ đề về Chúa Thánh Linh, Giáo Hội và hiệp thông các thánh đều được nối kết với nhau: “Tôi tin kính Chúa Thánh Thần, Hội Thánh Công Giáo, các thánh thông công.”
Việc hoàn hảo sự hiệp nhất này, hoặc việc hiệp thông các thánh, sẽ là kết quả có tính cách thế mạt của sự thánh thiện mà Chúa Thánh Linh đã ban cho Giáo Hội, cho mỗi người là con cái nam nữ của Giáo Hội, thuộc mọi thế hệ xuyên suốt dòng lịch sử. Mặc dầu trong dòng lịch sử, con cái nam nữ Giáo Hội thường “làm buồn lòng Chúa Thánh Linh” (Eph 4:30), đức tin cho chúng ta biết, “nhờ được” Thánh Linh “in dấu chờ ngày cứu độ” (Eph 4:30), nên những người đó có thể tiến đi trên đường thánh thiện, bất chấp sự yếu đuối và lỗi lầm của họ, cho tới hết hành trình. Trong Giáo Hội có nhiều đường lối và rất nhiều mẫu mực các thánh khác nhau.
“Tinh tú khác nhau về ánh sáng” (1 Cor 15:41). Nhưng “chỉ có một Thánh Linh” Đấng theo đường lối riêng và cách thức thiên linh của Ngài đem lại sự thánh thiện nơi mỗi người. Vì thế chúng ta có thể chấp nhận bằng đức tin và hy vọng theo lời khuyến dạy của Thánh Phaolô: “Vì thế, anh chị em thân mến, hãy kiên trì, bền chí, luôn luôn tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng trong Chúa sự khó nhọc của anh chị em sẽ không vô ích” (1 Cor 15:58).
Buổi gặp chung ngày 12 tháng Mười Hai, 1990
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
63. Chúa Thánh Linh Là Uyên Nguyên Công Giáo Tính
Trong kinh Tin Kính chúng ta minh xác Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo (phổ quát) và tông truyền. Đó là những đặc tính của Giáo Hội. Tính cách hoàn vũ (phổ quát, công giáo) quy chiếu cho Giáo Hội với cũng chính từ ngữ được sử dụng cho danh xưng của Giáo Hội: Giáo Hội Công Giáo.
Công giáo tính (phổ quát tính) khởi nguyên từ Chúa Thánh Linh, Đấng “lấp đầy càn khôn” (Kn 1:7) và là nguyên lý việc truyền thông và hiệp thông. “Quyền năng Chúa Thánh Linh” quy hướng về phổ biến đức tin vào Chúa Kitô và đời sống Kitô hữu “tới tận cùng (khắp) trái đất” (Cv 1:8), bao yểm phúc lợi ơn cứu độ cho muôn dân.
Trước khi Chúa Thánh Linh ngự xuống, việc hiệp thông với Thiên Chúa thực trong giao ước thần linh không được ban phát đồng đều tới mọi dân tộc. Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus nhận xét điều này khi nói với các Kitô hữu gốc dân ngoại: “Trước kia anh chị em là dân ngoại, mà những người tự xưng là ‘những người được cắt bì’ gọi là ‘những người không được cắt bì’ ... xin nhớ rằng trước kia anh chị em không có liên hệ gì với Chúa Kitô và bị loại ra khỏi cộng đồng Do Thái.
Anh chị em là những người xa lạ đối với giao ước và lời hứa; anh chị em không có hy vọng và không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Eph 2:11-12). Muốn đi vào giao ước thần linh; những người đó phải chấp nhận việc cắt bì và thừa nhận lề luật bắt buộc tuân giữ của người Israel, thế là họ tự đoạn tuyệt với dân họ.
Tuy nhiên, bây giờ hiệp thông với Thiên Chúa không còn đòi những điều kiện khắt khe đó nữa vì việc hiệp thông được thể hiện “nhờ Chúa Thánh Linh.” Không còn một kỳ thị nào dựa trên sắc tộc, dân tộc hoặc quốc gia.
Toàn thể nhân loại có thể “trở nên nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Linh” (Eph 2:22).
Chúa Giêsu loan báo sự thay đổi tình trạng này khi Ngài nói với người phụ nữ Samaria: “Giờ đã đến và đã đến đây rồi, khi những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thánh Linh (Thần Khí) và chân lý.
Dĩ nhiên, Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế. Thiên Chúa là Thần Linh, và những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thánh Linh và chân lý” (Jn 4:23-24). Trên đây là những lời Chúa Giêsu đáp lại câu hỏi về nơi dành cho việc thờ phượng đích thực dâng lên Thiên Chúa.
Đối với người Samaria thì nơi thờ phượng Thiên Chúa là Núi Gerizim, và người Israel là Jerusalem. Lời giải đáp của Chúa Kitô đưa đến một chiều kích khác của việc thờ phượng đích thực đối với Thiên Chúa, chiều kích nội tâm (“trong tinh thần và chân lý”), vì việc thờ phượng như thế không bị ràng buộc với một địa điểm cố định (một thánh địa quốc gia), mà vì thế là việc thờ phượng phổ quát.
Những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaria mở đường cho hoàn vũ tính (phổ quát tính, công giáo tính), đặc tính căn bản của Giáo Hội là đền thờ mới, thánh địa mới, mà Thánh Linh xây dựng và ngự trong đó.
Sự kiện dẫn thượng là nguồn gốc sâu xa của công giáo tính. Chúng ta có thể nói nguồn cội này là căn nguyên của công giáo tính ngoại tại hiển hiện: cộng đồng và xã hội. Điều quan trọng sống còn của Giáo Hội lệ thuộc sự kiện là Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ và những người kế tục các ngài loan Tin Mừng Phúc Âm “tới cho muôn dân nước” (Mt 28:19).
Hoàn vũ tính (phổ quát tính) của Giáo Hội dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh đã biểu hiện rõ vào lúc khai sinh trong ngày Lễ Hiện Xuống. Công Vụ Tông Đồ làm chứng trong biến cố tại Jerusalem, những người tham dự gồm “những người Do Thái nhiệt thành từ khắp các nước dưới gầm trời” (Cv 2:5) lưu lại thành thánh và cùng với họ là những người tòng Do Thái giáo, tức là người ngoại giáo chấp nhận luật Moses.
Công Vụ Tông Đồ kể tên một số quốc gia quê quán họ, nhưng cũng nói cách tổng quát hơn: “khắp các nước dưới gầm trời.” Cộng đồng Giáo Hội sơ khởi nhận được dấu chỉ và ý thức về “Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh” (Cv 1:5), ý thức này hiển nhiên có giá trị phổ quát, và Giáo Hội khai sinh từ đó với đặc tính phổ quát: toàn cầu, công giáo.
Phổ quát tính này được Chúa Thánh Linh tạo ra vào ngày Lễ Hiện Xuống và từ ngày đó đã luôn luôn song hành với đòi hỏi về phổ quát “đặt biệt” liên quan tới con người, các dân tộc và quốc gia. Theo lời thánh Luca trong Sách Công Vụ, sự kiện trên là kết quả quyền năng Chúa Thánh Linh biểu lộ qua ơn nói tiếng lạ, để mỗi người (hiện diện lúc đó) nghe được các tông đồ nói tiếng địa phương của họ (tc. Cv 2:4-6).
Ở đây chúng ta có thể nhận xét: Chúa Thánh Linh là Tình Yêu, và yêu thương người nào đó có nghĩa là quí trọng mọi thứ thuộc ưu tiên dành cho người được yêu. Điều này đặc biệt dành cho ngôn ngữ vốn thường đòi hỏi tính cách bén nhạy và quí trọng, nhưng cũng đúng đối với văn hóa, tinh thần và tập quán.
Biến cố Lễ Hiện Xuống lưu ý đến nhu cầu này và hiển lộ nhất quán tính của Giáo Hội trong đa chủng tộc và văn hóa đa nguyên. Công giáo tính của Giáo Hội bao gồm việc tôn trọng mọi giá trị. Chúng ta có thể nói chi tiết đặc biệt đó không loại bỏ phổ quát tính. Chiều kích này chỉ hiện hữu nếu có chiều kích khác.
Sư kiện đa ngôn ngữ vào Ngày Lễ Hiện Xuống (Lễ Ngũ Tuần) cho chúng ta hiểu ngôn ngữ đức tin trong Giáo Hội rất phổ quát, bởi vì đó là các diễn tả chân lý mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã mạc khải để con người có thể đối thoại bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau; chúng ta có thể diễn đạt bằng một hay nhiều ngôn ngữ.
Lịch sử Kitô Giáo sơ khai nhất đã là bằng chứng cho điều này. Chúng ta biết Chúa Giêsu nói tiếng Aramaic là ngôn ngữ thời thượng tại Israel. Khi các tông đồ ra đi truyền bá sứ điệp Chúa Kitô, tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ chung cho thế giới Hy-La (Greco-Roman), và vì thế trở nên ngôn ngữ truyền bá tin mừng. Tiếng Hy Lạp cũng là ngôn ngữ Phúc Âm và tất cả các sách khác thuộc Tân Ước viết ra nhờ linh ứng của Chúa Thánh Linh. Những sách này chỉ có một ít từ ngữ Aramaic. Như thế từ khởi đầu, chân lý mà Chúa Kitô rao giảng đã tiếp xúc với mọi ngôn ngữ và nói với mọi dân tộc.
Theo nguyên tắc này, Giáo Hội đã luôn tìm kiếm, tiếp tục học hỏi phương pháp luận và cách giảng dạy của các tông đồ tùy theo hoàn cảnh tại những miền khác nhau. Ngày nay nhờ ơn Chúa, chúng ta biết việc thực hiện nhu cầu công giáo tính cảm thấy rất thuận lợi. Trong Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy một sự kiện khác nữa trong biến cố xảy ra trước việc Thánh Phaolô, là vị tông đồ của công giáo tính, quy phục và đi rao giảng.
Tại Caesarea, Thánh Phêrô đã nhận vào Giáo Hội và làm Phép Rửa cho ông Cornelius, một sĩ quan bách quân Roma, và tất cả mọi người trong nhà ông là những người ngoại giáo đầu tiên. Lời tường thuật của Thánh Luca về biến cố này, gồm nhiều chi tiết, cho thấy trong mọi sự, nhất là Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên tất cả những người nghe lời Tông Đồ Phêrô rao giảng, “các tín hữu đã được cắt bì đi theo ông Phêrô đều ngỡ ngàng khi ơn Chúa Thánh Linh cũng đã được đổ xuống trên những dân ngoại nữa” (Cv 10:44-45).
Tuy nhiên, Thánh Phêrô đã không ngần ngại tuyên xưng ngài đã hành động dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh: “Thánh Linh bảo tôi đi theo những người đó không chần chừ do dự” (Cv 11:12).
“Sự thử thách” đầu tiên về phổ quát tính của đức tin đã lập tức được thắng vượt và minh xác vững vàng hơn khi thảo luận về hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô thành Tarsus và các bạn của ngài. Cuộc hội họp tại Jerusalem (hội nghị này được coi là “Công Đồng” thứ nhất) tăng cường chiều hướng công giáo tính trong việc rao giảng Tin Mừng và phát triển Giáo Hội. Các tông đồ họp hội nghị biết chắc sự chỉ dẫn này đến từ Chúa Thánh Linh của Lễ Hiện Xuống.
Lời lẽ các ngài rất hùng hồn và tiếp tục hùng hồn như thế. Những lời lẽ đó có thể được coi là tuyên ngôn của chính Công Đồng I này: “Chính quyết định của Chúa Thánh Linh và cũng của chúng tôi (Chúa Thánh Thần và chúng tôi cùng quyết định)” (Cv 15:28). Những quyết định này liên quan tới đường lối phổ quát mà Giáo Hội phải theo.
Không thể hoài nghi đây là đường lối Giáo Hội đi theo từ ngày khai sinh và suốt mọi thế kỷ nay. Các tông đồ và nhà truyền giáo rao giảng Phúc Âm cho muôn dân, thấm nhập càng nhiều và sâu rộng vào những xã hội và môi trường khác nhau. Theo những thời gian thuận lợi, Giáo Hội đã tìm cách đưa ngôn từ cứu độ vào các nền văn hóa (hội nhập văn hóa), đồng thời giúp các nền văn hóa đó nhận biết rõ hơn các giá trị chân thực của mình trong ánh sáng Tin Mừng.
Đây là điều Công Đồng Vatican II ấn định làm luật căn bản cho Giáo Hội khi minh định: “Mọi người được mời gọi gia nhập Dân Tộc mới của Thiên Chúa. Vì thế, Dân mới này, một dân duy nhất và hằng hiệp nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế giới trải qua mọi thế hệ ... Chính vì mục đích này mà Thiên Chúa đã gởi Con của Ngài đến trần gian ... Cũng vì mục đích này Thiên Chúa gởi Thánh Linh của Con Ngài làm Chúa và là Đấng ban sự sống.
Chính Thánh Linh quy tụ toàn thể Giáo Hội với tất cả cũng như với mỗi tín hữu, và Thánh Linh là nguyên lý quy tụ và hiệp nhất trong giáo lý của các tông đồ, trong việc hiệp thông, trong việc bẻ bánh và kinh nguyện (tc. Cv 2:42)” (LG 13). Bằng những lời trên đây Công đồng loan báo sự cảnh giác của chính mình về sự kiện Chúa Thánh Linh là nguyên lý và nguồn mạch phổ quát tính của Giáo Hội.
Buổi gặp chung ngày 2 tháng Giêng, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
64. Chúa Thánh Linh Canh Giữ Mối Tông Truyền
Trong các bài giáo lý trước, khi minh họa hành động của Chúa Thánh Linh là linh hồn của Nhiệm Thể Chúa Kitô, chúng ta đã thấy Ngài là nguồn mạch và nguyên lý sự hiệp nhất, (sự) thánh thiện, và công giáo (hoàn vũ) tính của Giáo Hội.
Hôm nay chúng ta có thể nói thêm rằng Chúa Thánh Linh cũng là nguồn căn và nguyên lý của tông truyền tính vốn là đặc tính thứ bốn của Giáo Hội: “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (unam, sanctam, catholicam et apostolicam Ecclesiam),” như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Nhờ Chúa Thánh Linh, Giáo Hội tông truyền, có nghĩa là Giáo Hội được “xây dựng trên nền tảng các tông đồ,” mà Chúa Kitô là tảng đá góc tường, như lời Thánh Phaolô (Eph 2:20).
Đây là điểm rất đáng chú ý về Giáo Hội học nhìn qua lăng kính Thánh Linh học (tc. Eph 2:22).
Thánh Thomas Aquinas nhấn mạnh sự kiện trên trong bài giáo lý của ngài về kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ: “Chúa Kitô là nền tảng chính của Giáo Hội, như Thánh Phaolô minh xác trong Thư I viết cho giáo đoàn tại Corinth (3:11): ‘Không ai có thể tạo dựng (đặt) nền tảng nào khác ngoài nền tảng đã đặt sẵn, đó là Chúa Giêsu Kitô.’
Nhưng có nền tảng thứ yếu là các tông đồ và giáo huấn của các ngài. Vì thế nên chúng ta gọi là Giáo Hội tông truyền” (In Symb. Apost. a. 9). Ngoài việc nhận thức quan niệm cổ xưa (của Thánh Thomas và thời trung cổ) về tông truyền tính của Giáo Hội, văn bản của Thánh Thomas nhắc nhở chúng ta rằng nền tảng Giáo Hội là mối liên hệ giữa Chúa Kitô và các tông đồ, mà Chúa Thánh Linh đã thực hiện mối liên hệ đó.
Điều này minh họa chân lý thần học (và mạc khải) về một tông truyền tính mà căn nguyên là Chúa Thánh Linh. Ngài là tác giả việc hiệp thông chân lý liên kết các tông đồ với Chúa Kitô và qua giáo huấn của các ngài, cùng liên kết các thế hệ Kitô hữu và Giáo Hội thuộc mọi thế kỷ lịch sử với Chúa Kitô.
Chúng ta đã nhắc lại nhiều lần lời Chúa Giêsu loan báo với các tông đồ tại Tiệc Ly: “Đấng An Ủi, Chúa Thánh Linh mà Chúa Cha sẽ gởi đến nhân danh Thầy sẽ chỉ dạy anh em mọi điều và nhắc anh em nhớ mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:26). Những lời Chúa Kitô nói trước khi chịu khổ nạn được ghi lại đầy đủ trong văn bản của Thánh Luca như sau: Chúa Giêsu “đã trước tiên chỉ dạy các tông đồ ... nhờ Chúa Thánh Linh ... được rước lên trời” (Cv 1:2). Khi đối diện với cái chết, Thánh Phaolô đã viết cho ông Timothy nhắc nhở ông: “anh hãy bảo toàn kho tàng đức tin phong phú nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Linh ngự trong chúng ta” (2 Tim 1:14).
Theo lời Thánh Phaolô thì Lễ Hiện Xuống, Thánh Linh đã tràn ngập các tông đồ và các cộng đồng tông đồ, Thánh Linh Đấng bảo đảm việc truyền trao đức tin trong Giáo Hội qua mọi thế hệ, giúp những người kế vị các tông đồ bảo toàn “kho tàng phong phú” chân lý được Chúa Kitô mạc khải.
Trong Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy lời tường thuật một chi tiết minh họa chân lý Chúa Thánh Linh ngự xuống thuộc tông truyền tính của Giáo Hội trong chiều kích Thánh Linh học. “(do) Thánh Linh sai phái” (Cv 20:22) Tông Đồ Phaolô đi Jerusalem.
Thánh Phaolô ra đi mà cảm thấy và biết chắc những người được ngài rao giảng tin mừng cho tại Ephesus sẽ không bao giờ còn gặp lại ngài nữa (tc. Cv 20:25). Lúc đó ngài nói với các tư tế của cộng đoàn Giáo Hội tại Ephesus tụ họp chung quanh ngài: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên Chúa Thánh Linh đã ký thác cho anh em chăm sóc. Anh em hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Ngài đã chuộc bằng chính máu mình” (Cv 20:28).
“Giám mục” nghĩa là vị giám sát và thủ lãnh. Các vị đó được cắt đặt để chăn dắt trong khi vẫn phải duy trì nền tảng chân lý tông truyền mà, theo linh tính của Thánh Phaolô, sẽ bị bóp méo và đe dọa bởi những kẻ truyền bá “giáo lý giả” (tc. Cv 20:30). Những người truyền bá giáo lý giả sẽ tìm cách ly gián các môn đệ khỏi chân lý Phúc Âm mà các tông đồ đã rao giảng.
Thánh Phaolô khuyến giục các mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình, vững tin là Chúa Thánh Linh Đấng cắt đặt các ngài vào chức năng “giám mục” sẽ hỗ trợ nâng đỡ các ngài.
Chúa Thánh Linh sẽ hướng dẫn những người kế vị các tông đồ trong quyền năng (sức mạnh, munus) và trách nhiệm bảo toàn chân lý mà các tông đồ đã nhận được từ Chúa Kitô. Hiển nhiên là chính Chúa Thánh Linh phòng vệ chân lý và lòng kiên tín vào chân lý đức tin cho dân Thiên Chúa.
Ngoài nhiệm vụ bảo quản chân lý của Chúa Kitô, các tông đồ và những người kế vị có trách nhiệm làm chứng cho chân lý đó, và các ngài thực hiện nhiệm vụ này nhờ Chúa Thánh Linh trợ giúp. Như lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ trước khi Ngài lên trời: “Anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Jerusalem, khắp xứ Judea và Samaria và cho tới tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Đây là ơn gọi liên kết các tông đồ vào sứ mệnh của chính Chúa Giêsu, Đấng mà Sách Khải Huyền nói là “vị chứng nhân trung thành” (Kh 1:5). Khi cầu nguyện cho các tông đồ, Chúa Giêsu xin với Chúa Cha: “Như Cha đã phái Con xuống thế gian, Con cũng gửi họ đi khắp hoàn vũ” (Jn 17:18).
Khi hiện ra vào chiều ngày Phục Sinh, trước khi hà hơi thở Thánh Linh vào các tông đồ, Chúa Giêsu nói với các ông: “Như Chúa Cha đã phái Thầy, Thầy cũng sai anh em đi” (Jn 20:21). Tuy nhiên, các tông đồ là những người tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô nên việc các ngài là chứng nhân liên kết với việc Chúa Thánh Linh làm chứng cho Chúa Kitô: “Thánh Linh chân lý, Đấng từ Chúa Cha mà ra, sẽ làm chứng cho Thầy, và anh em nữa cũng sẽ làm chứng (cho Thầy), vì anh em đã ở với Thầy từ lúc khởi đầu” (Jn 15:26-27).
Trước khi Chúa Giêsu lên trời, Ngài lặp lại với các tông đồ lời trên đây mà Ngài đã nói với các ông trong Tiệc Ly. Trong linh quang vĩnh cửu, chương trình Chúa Kitô chịu khổ hình tử nạn và phục sinh, Ngài nói “việc ăn năn thống hối để được tha thứ tội lỗi phải được, nhân danh Thầy, rao giảng cho muôn dân ... Anh em là nhân chứng về điều này. Thầy sẽ gửi đến cho anh em điều Cha của Thầy đã hứa” (Lc 24:48-49).
Ngài dứt khoát loan báo: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên anh em; khi đó anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1:8).
Đây là lời hứa về Lễ Hiện Xuống, không phải chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà còn tư duy nội tâm, và chiều kích thần linh của việc các tông đồ làm chứng, thế nên chúng ta có thể nói đó là lời hứa về tính cách tông truyền của Giáo Hội.
Các tông đồ ý thức việc liên kết này với Chúa Thánh Linh trong việc “làm chứng” Chúa Kitô chịu khổ hình thập giá và phục sinh. Chúng ta có thể thấy rõ trong lời Tông Đồ Phêrô và các bạn của ngài đã minh thị trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Sanhedrin) khi họ tìm cách bịt miệng các ngài, cấm các ngài không được nói về Chúa Kitô: “Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã phục sinh Chúa Giêsu Đấng đã bị các ông treo trên cây mà giết đi.
Nhưng Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài bên hữu Thiên Chúa, đặt Ngài làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ hầu đem lại cho dân Israel ơn ăn năn thống hối và tha thứ tội lỗi. Chúng tôi làm chứng điều này. Chúa Thánh Linh, Đấng mà Thiên Chúa ban cho những ai vâng phục Ngài, cũng làm chứng điều này” (Cv 5:30-32).
Giáo Hội cũng vậy, suốt dòng lịch sử của mình, đã biết Chúa Thánh Linh ở với Giáo Hội để làm chứng cho Chúa Kitô. Giáo Hội biết những giới hạn và yếu đuối của con cái mình. Trong lời từ biệt tại Miletus, Thánh Phaolô khuyến cáo ‘các giám mục” tận tụy học hỏi và đề cao cảnh giác.
Giáo Hội biết Chúa Thánh Linh bảo quản và phòng vệ Giáo Hội khỏi sai lầm trong việc làm chứng cho Chúa Kitô và về giáo lý Giáo Hội nhận được từ Ngài để loan báo cho thế giới. Công Đồng Vatican II nói: “Chúa Cứu Thế đã muốn Giáo Hội của Ngài bất khả ngộ khi xác định giáo thuyết về đức tin và phong hóa; ơn bất khả ngộ của Giáo Hội có phạm vi rộng rãi tùy theo kho tàng mạc khải Giáo Hội phải bảo toàn một cách thánh thiện và trình bày một cách trung thực”(LG 25).
Văn bản của Công Đồng Vatican II xác minh theo ơn bất khả ngộ này, nhờ Chúa Thánh Linh, nới rộng cho toàn thể giám mục đoàn và cách đặc biệt cho giám mục Roma (Giáo Hoàng), trong cương vị các ngài là những người kế vị các tông đồ và kiên trì trong chân lý thừa hưởng từ các tông đồ.
Vì thế Chúa Thánh Linh là nguyên lý ban sự sống của tông truyền tính này. Nhờ Chúa Thánh Linh mà Giáo Hội có thể trải rộng khắp thế giới, xuyên suốt qua nhiều giai đoạn lịch sử, hội nhập vào nhiều nền văn hóa và văn minh khác nhau, nhưng vẫn luôn duy trì bản chất đặc thù Phúc Âm của mình. Như chúng ta đọc trong Sắc Lệnh Ad Gentes (về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội) của Công Đồng Vatican II: “Chúa Kitô đã phái Thánh Linh từ Chúa Cha đến để Ngài thực hiện công trình cứu chuộc trong các tâm hồn và thúc đẩy Giáo Hội phát triển thêm mãi.
Chúa Giêsu, trước khi tự nguyện hiến mạng sống vì thế gian, đã thiết lập tác vụ tông đồ và hứa gửi Chúa Thánh Linh đến hợp tác với các tông đồ ngõ hầu công cuộc cứu chuộc luôn luôn loan tỏa khắp hoàn vũ. Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Linh ... ban cho Giáo Hội các ơn phẩm trật và đoàn sủng khác nhau và là linh hồn làm sống động những định chế trong Giáo Hội và đổ dần vào tâm hồn các tín hữu cùng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Kitô ...” (AG 4).
Và Hiến Chế Lumen Gentium (Tín Lý về Giáo Hội) nhấn mạnh: “sứ mệnh thần linh, được Chúa Kitô ủy thác cho các tông đồ, sẽ tồn tại đến tận thế, (tc. Mt 28:20) vì Phúc Âm các ngài phải rao giảng là nguyên lý của cả đời sống Giáo Hội qua mọi thời đại” (LG 20). Trong bài giáo lý kế tiếp, chúng ta sẽ đề cập đến Chúa Thánh Linh can thiệp trong việc truyền bá Phúc Âm và ban cho Giáo Hội ơn bảo đảm từ trời.
Buổi gặp chung ngày 9 tháng Giêng, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
65. Chúa Thánh Linh Canh Giữ Truyền Thống Thánh
Theo ý nghĩa sâu xa nhất, tông truyền tính của Giáo Hội liên kết các mục tử và tín hữu chặt chẽ với nhau. Tông truyền tính gắn liền với chân lý mà Chúa Kitô đã mạc khải qua các tông đồ và những người kế vị các ngài những kiến thức đầy đủ về nội dung và giá trị của tông truyền tính cho cuộc sống.
Tông truyền tính là chân lý có căn nguyên thần linh liên quan tới các mầu nhiệm vượt trên mọi khả thể viễn kiến hoặc năng lực tâm trí nhân loại.
Nhờ uy lực Ngôn Từ của Thiên Chúa chỉ dạy cho con người qua biểu tượng và diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân loại mà Lời của Ngài phải được thấu triệt và rao giảng, tin tưởng và trung tín tuân theo. Vả lại nếu chỉ bằng uy tín do sự khôn ngoan của con người không thôi thì không đủ bảo đảm tính cách xác thực việc chuyển trao chân lý Lời Thiên Chúa, vì thế cũng không thể trao truyền trọn vẹn chiều kích sâu xa tông truyền tính của Giáo Hội.
Công Đồng Vatican II bảo đảm với chúng ta chính Chúa Thánh Linh là Đấng bảo vệ tính cách xác thực của việc này. Theo Hiến Chế Dei Verbum (Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa): “do việc gởi Chúa Thánh Linh đến” Chúa Giêsu Kitô “xác nhận với bằng chứng thần linh điều mạc khải được loan báo: Thiên Chúa ở với chúng ta để giải phóng chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, và phục sinh chúng ta để sống đời đời” (DViv 4).
Đoạn văn này trích từ Hiến Chế của Công Đồng Dei Verbum được chứng minh bằng những lời Chúa Kitô nói với các tông đồ tại căn phòng trên lầu như thánh sử Gioan ghi lại: “Thầy còn nhiều điều phải nói cho anh em biết, nhưng lúc này anh em không có sức mang nổi. Tuy nhiên, khi Thánh Linh chân lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới toàn chân lý (tất cả sự thật). Ngài sẽ không tự mình nói ra, nhưng sẽ nói những gì Ngài nghe” (Jn 16:12-13).
Vì thế chính Chúa Thánh Linh sẽ soi sáng cho các tông đồ và hiển nhiên là cả những vị kế nhiệm các ngài trong sứ mệnh này, để các vị ấy có thể loan báo “toàn chân lý” Phúc Âm của Chúa Kitô, “giảng dạy muôn dân” (tc. Mt 28:19).
Hiến Chế Dei Verbum dạy tiếp: lệnh truyền rao giảng Tin Mừng “được các tông đồ thực hiện cách trung thành, bằng lời giảng dạy và gương sáng của các ngài, các thể chế mà các ngài truyền lại là những điều các ngài đã lãnh nhận từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Ngài và thấy Ngài hành động, hoặc những điều các ngài học hỏi được nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn. Các tông đồ và phụ tá cũng đã hoàn tất sứ mệnh ghi chép tin mừng cứu độ thành văn dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh Linh” (DViv 7).
Như chúng ta thấy, văn bản Công Đồng nói đến sự bảo đảm của Chúa Thánh Linh về chân lý mạc khải theo cách truyền khẩu (nguồn gốc truyền thống) và bằng văn bản ký tự thể hiện được nhờ linh ứng và sự trợ giúp thần linh trong các Sách Tân Ước. Chúng ta đọc tiếp: “Chúa Thánh Linh, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, đã hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho lời Chúa Kitô tràn ngập tâm hồn họ (tc. Col 3:16)” (DViv 8).
Như thế, “Thánh Kinh là lời Thiên Chúa nói vì đã ghi lại dưới linh ứng của Thánh Linh, trong khi Thánh Truyền lưu lại lời Thiên Chúa mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Linh ủy thác cho các tông đồ và truyền lại toàn vẹn cho những người kế vị các ngài, để nhờ Thánh Linh chân lý soi sáng mà các ngài trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng” (DViv 9). Và “nhiệm vụ giải thích đích thực lời Thiên Chúa ... chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Giáo Hội, thi hành nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
Huấn Quyền này không vượt quá lời Thiên Chúa, nhưng phục vụ lời Chúa, thừa lệnh Chúa và với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Linh chỉ dạy những gì đã được truyền lại, thành tâm lắng nghe, duy trì cách thánh thiện và trung thành trình bày lời Chúa, Giáo Hội rút ra từ kho tàng duy nhất này của đức tin mọi điều Giáo Hội dạy phải tin là do Thiên Chúa mạc khải” (DViv 10). Vì thế, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa Sách Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền của Giáo Hội.
Qua việc nối kết mật thiết này, Chúa Thánh Linh bảo đảm việc truyền đạt mạc khải thần linh và dĩ nhiên cả bản sắc đức tin của Giáo Hội nữa. Đặc biệt về phương diện Sách Thánh, Công Đồng cho biết: “Giáo Hội mẹ thánh, nhờ đức tin tông truyền xác nhận toàn bộ Sách Cựu Ước và Tân Ước với tất cả các văn tập đều là Sách Thánh đã ghi vào bản chính lục Thánh Kinh vì đã viết ra dưới ơn linh ứng của Chúa Thánh Linh, tác giả các sách này là chính Thiên Chúa và các kinh sách này được lưu truyền cho Giáo Hội theo nguyên trạng...
Mọi lời các tác giả được linh ứng viết ra phải coi là được Chúa Thánh Linh xác định ...” (DViv 11). Và kết quả là “Thánh Kinh đã được viết ra do Chúa Thánh Linh, nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Linh ...” (DViv 12).
“Những điều các tông đồ rao giảng theo lệnh Chúa Kitô, sau này nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn, chính các tông đồ và những người được ủy thác ghi lại và lưu truyền cho chúng ta: nền tảng đức tin, Phúc Âm được trình bày dưới bốn hình thức: theo các Thánh Mátthêu, Marcô, Luca và Gioan” (DViv 18).
“Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã truyền lại cho những người nghe các ngài những gì Chúa đã nói đã làm. Các tông đồ làm việc này nhờ hiểu biết rõ ràng hơn về những điều mà các ngài đã học hỏi được sau khi các ngài đã chứng kiến các biến cố trong cuộc đời Chúa Kitô và được linh quang Thánh Linh Chân Lý dạy dỗ” (DViv 19).
Sự nối kết gắn bó này giữa Chúa Thánh Linh, mạc khải và việc lưu truyền chân lý thần linh là căn bản quyền tông đồ của Giáo Hội và luận chứng có tính cách quyết định đối với đức tin vào Ngôi Lời mà Giáo Hội truyền lại cho chúng ta. Ngoài ra, Công Đồng cũng nói, Chúa Thánh Linh can thiệp vào việc sinh ra đức tin trong lòng người ta. Hiển nhiên, ‘sự vâng phục đức tin’ (Rom 16:26; tc. 1:5; 2 Cor 10:5-6) ‘phải được dâng lên Thiên Chúa là Đấng mạc khải, một sự vâng phục mà con người tự nguyện dâng lên Thiên Chúa bản ngã của mình, hiến dâng lòng qui phục hoàn toàn về trí năng và ý chí lên Thiên Chúa là Đấng mạc khải,’ và tự do chấp nhận chân lý mà Ngài mạc khải cho.
Muốn được niềm tin này, trước tiên cần có ân sủng Thiên Chúa giúp đỡ và sự trợ giúp trong lòng của Chúa Thánh Linh, chuyển động và đưa tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa, mở lý trí và ban cho mọi người ‘niềm vui và dễ dàng đón nhận và tin theo chân lý.’ Để đem lại việc hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng Chúa Thánh Linh không ngừng kiện toàn đức tin qua ơn của Ngài” (DViv 5).
Những sự kiện trên đây là vấn đề đức tin của toàn thể Giáo Hội và mọi tín hữu. Đó cũng là vấn đề về hiểu biết chính xác mạc khải thần linh hằng tuôn chảy từ đức tin nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh, và việc phát triển đức tin qua “suy niệm và học hỏi của các tín hữu.” Khi nói về “Truyền Thống lưu lại từ các tông đồ,” Công Đồng nói: Tông Truyền “tiến triển trong Giáo Hội nhờ Chúa Thánh Linh trợ giúp.
Những sự việc và lời nói truyền lại được hiểu thấu đáo hơn vì các tín hữu chiêm ngắm, học hỏi và ghi nhớ những điều đó trong lòng (như Đức Maria: tc. Lc 2:19, 51), thấu triệt và cảm nghiệm những thực tại tâm linh, và nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận ân sủng chắc chắn về chân lý do việc kế vị chức giám mục” (DViv 8). Công Đồng nói thêm về Sách Thánh: “được Thiên Chúa linh ứng và ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phổ biến nguyên văn lời của chính Chúa, và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Linh qua các ngôn sứ và tông đồ” (DViv 21).
Vì thế “Hiền Thê của Ngôi Lời Nhập Thể, Giáo Hội được Chúa Thánh Linh chỉ dạy, luôn luôn cố gắng hiểu biết Sách Thánh ngày càng sâu rộng hơn ...” (DViv 23). Vì thế, Giáo Hội “luôn luôn tôn kính Thánh Kinh,” và Giáo Hội nhận được lương thực nuôi dưỡng từ Sách Thánh cũng như từ “bánh ban sự sống (bàn tiệc thánh)” “luôn luôn duy trì và tiếp tục duy trì Sách Thánh, cùng với các truyền thống là luật tối cao của đức tin ...” DViv 21).
Và vì, “qua bao thế kỷ nối tiếp nhau, Giáo Hội luôn luôn hướng tới sự viên mãn chân lý thần linh cho đến khi các lời Thiên Chúa đạt tới viên mãn trong Giáo Hội” (DViv 8), toàn thể cuộc sống Giáo Hội được Chúa Thánh Linh làm cho sinh động, nhờ đó Giáo Hội kêu cầu vinh quang Chúa Kitô ngự đến. Như chúng ta đọc trong Sách Khải huyền: “Thánh Linh và Hiền Thê nói: Xin hãy đến!” (Kh 22:17). Trong trật tự của sự sung mãn chân lý, Chúa Thánh Linh hướng dẫn và bảo đảm việc lưu truyền mạc khải, chuẩn bị Giáo Hội và từng người chúng ta trong Giáo Hội đón ngày Chúa đến lần sau cùng.
Buổi gặp chung ngày 16 tháng Giêng, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
66. Chúa Thánh Linh là Căn Nguyên Đời Sống Nhiệm Tích
Chúa Thánh Linh là nguồn chân lý và nguyên lý sự sống của căn tính Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Chúa Thánh Linh cũng là nguồn mạch và nguyên lý đời sống Nhiệm Tích mà nhờ đó Giáo Hội hưởng được sức mạnh của Chúa Kitô, tham dự vào sự thánh thiện của Ngài, được ân sủng nuôi dưỡng, phát triển và thăng tiến trên đường về nơi vĩnh hằng. Chúa Thánh Linh, Đấng là căn nguyên Việc Nhập Thể của Ngôi Lời, là nguồn mạch hằng sống tất cả các Nhiệm Tích mà Chúa Kitô đã thiết lập và hoạt động trong Giáo Hội.
Chúa Kitô ban cho chúng ta “sự sống mới” qua các Nhiệm Tích, kết hợp Giáo Hội với chính Ngài trong công cuộc cứu độ thế giới. Chúng ta không chủ ý giải thích bản chất, đặc tính cũng như phạm vi các Nhiệm Tích, mà nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ dành cho những bài giáo lý khác sau này. Nhưng lúc nào chúng ta cũng có thể trở lại với công thức đơn giản và súc tích ngắn gọn của sách bổn (sách giáo lý) cổ điển, theo đó “các Nhiệm Tích là phương tiện ân sủng mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập cho việc cứu chuộc chúng ta.” Chúng ta cũng có thể nhắc lại một lần nữa Chúa Thánh Linh là tác giả, Đấng phân phát và cũng là hơi thở ân sủng của Chúa Kitô trong chúng ta.
Theo các văn bản Phúc Âm, chúng ta sẽ tìm thấy tương quan các Nhiệm Tích cá thể ra sao trong bài giáo lý này. Việc nối kết này đặc biệt rõ ràng trong Phép Rửa mà Chúa Giêsu đã mô tả khi nói chuyện với ông Nicodemus là “được sinh ra bởi nước và Thánh Linh (Thần Khí)”: “Thứ được sinh ra bởi xác thịt là xác thịt và thứ được sinh ra bởi Thánh Linh là thần khí ... Ông phải được tái sinh bởi ơn trên” (Jn 3:5-7).
Ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo và giới thiệu Chúa Kitô là “Đấng làm Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh” (Jn 1:33), “trong Chúa Thánh Linh và lửa” (Mt 3:11).
Cũng chân lý đó được diễn tả theo một cách khác trong Sách Công Vụ và văn liệu của các tông đồ. Vào ngày Lễ Hiện Xuống, những người nghe Tông Đồ Phêrô giảng đã nhận được lời mời gọi: “Từng người anh chị em hãy ăn năn thống hối vào chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được ơn tha thứ tội lỗi; và anh chị em sẽ nhận được ơn Chúa Thánh Linh” (Cv 2:38).
Thánh Phaolô nói: “Phép Rửa ban ơn tái sinh và canh tân nhờ Chúa Thánh Linh” được Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta tuôn đổ ra (tc. Titus 3:5-6). Thánh Phaolô nhắc nhở người lãnh nhận Phép Rửa như sau: “anh chị em đã được thanh tẩy, anh chị em đã được thánh hóa, anh chị em đã được công chính hóa nhân danh Chúa Giêsu Kitô và trong Thánh Linh (của) Thiên Chúa chúng ta” (1 Cor 6:11).
Lại nữa Thánh Phaolô nói với những người chịu Phép Rửa: “trong một Thánh Linh tất cả (những người đó) đều đã được thanh tẩy trở nên một thân thể” (1 Cor 12:13). Trong giáo huấn của Thánh Phaolô cũng như trong Phúc Âm, Chúa Thánh Linh và danh Chúa Giêsu Kitô nối liền với nhau khi tuyên xưng, nhắc đến và nói về Phép Rửa là nguồn mạch thánh hoá và cứu độ, tức là cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đã nói với ông Nicodemus.
Nhiệm Tích Thêm Sức, nối liền với Nhiệm Tích Thanh Tẩy, mà trong Sách Công Vụ diễn tả bằng hình thức đặt tay (trên đầu) qua đó các tông đồ truyền thông ơn Chúa Thánh Linh. Thánh Phêrô và Gioan “đặt tay trên” các Kitô hữu tân tòng vừa mới lãnh nhận Phép Rửa “và những người đó nhận được Chúa Thánh Linh” (Cv 8:17).
Tông Đồ Phaolô cũng đã thực hiện như thế cho những tân tòng khác: “Và khi ông Phaolô đặt tay trên những người đó, Chúa Thánh Linh ngự xuống trên họ” (Cv 19:6). Vì thế nhờ đức tin và các Nhiệm Tích, “chúng ta được đóng ấn Chúa Thánh Linh, Đấng (mà) Thiên Chúa đã hứa ban, Thánh Linh là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Eph 1:13-14).
Thánh Phaolô viết cho các tín hữu ở Corinth: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh chị em trong Chúa Kitô và đã xức dầu chúng ta là Thiên Chúa; Ngài cũng đã đóng ấn của Ngài trên chúng ta và ban Thánh Linh vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cor 1:21-22; tc. 1 Jn 2:20,27; 3:24).
Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus thêm phần khiển trách đáng chú ý là đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Linh mà “chúng ta được đóng ấn chờ ngày cứu độ” (Eph 4:30). Từ Sách Công Vụ, chúng ta có thể suy ra rằng Nhiệm Tích Thêm Sức được thực hiện qua việc đặt tay sau khi đã chịu Phép Rửa “nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (tc. Cv 8:15-17; 19:5-6).
Uy lực của lời Chúa Kitô, sau khi phục sinh, thiết lập Nhiệm Tích Giao Hòa (Phép Giải Tội) trên nền tảng quyền năng Chúa Thánh Linh. Thánh Gioan làm chứng Chúa Giêsu hà hơi vào các tông đồ và nói với các ông: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh, anh em tha tội cho người nào thì những tội lỗi đó được tha thứ; anh em cầm buộc tội người nào thì những tội lỗi đó bị cầm buộc” (Jn 20:22-23).
Những lời này cũng có thể nói về Nhiệm Tích Xức Dầu Bệnh Nhân, chúng ta đọc trong Thư Thánh Giacôbê: “lời cầu nguyện do lòng tin,” cùng với việc trưởng lão (linh mục) xức dầu “nhân danh Chúa,” sẽ cứu người bệnh tật, và Chúa sẽ cho người đó chỗi dậy (khỏi bệnh). “Nếu người đó đã phạm bất cứ tội gì, thì người đó sẽ được tha thứ” (Jas 5:14-15). Truyền thống Kitô Giáo đã thấy ở việc xức dầu và cầu nguyện một hình thức khởi đầu của Nhiệm Tích Xức Dầu (tc. St. Thomas, Contra Gentes, IV, C. 73).
Công Đồng Trent đã phê chuẩn truyền thống xức dầu bệnh nhân (tc. DS 1695). Theo lời tường thuật của Thánh Gioan trong Tân Ước đã có dấu chứng trực tiếp nhiều hoặc ít về Nhiệm Tích Thánh Thể nối kết với Chúa Thánh Linh, khi ngài nhắc lại lời Chúa Giêsu loan báo tại hội đường ở Capernaum về việc lập Nhiệm Tích Mình và Máu Chúa: “Chính Thánh Linh (Thần Khí) ban sự sống chứ xác thịt chẳng có ích gì; những lời Tôi (Thầy) nói với anh em là thần linh (thần khí) và sự sống” (Jn 6:63).
Cả ngôn từ lẫn Nhiệm Tích đều có sự sống và hiệu lực tác động từ Chúa Thánh Linh. Truyền thống Kitô Giáo ý thức mối kết này giữa Phép Thánh Thể và Chúa Thánh Linh như đã được mô tả và ngày nay vẫn còn, trong Thánh Lễ, trong kinh khẩn nguyện Thánh Linh (epiklesis), Giáo Hội xin thánh hóa lễ phẩm dâng hiến trên bàn thờ: “với quyền lực Chúa Thánh Linh” (Lời nguyện Thánh Thể III); “xin Thánh Linh Chúa ngự xuống trên các lễ phẩm này” (Lời nguyện Thánh Thể II); “xin ban phúc chấp nhận và chuẩn y lễ phẩm này của chúng con dâng” (Lời nguyện Thánh Thể I).
Giáo Hội nhấn mạnh đến quyền lực mầu nhiệm của Chúa Thánh Linh hoàn tất việc thánh hiến Thánh Thể, huyền nhiệm biến đổi bánh (miến) và rượu (nho) trở nên Mình và Máu Chúa Kitô, và truyền thông ân phước cho những người tham dự Nhiệm Tích Thánh Thể và cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu. Về Nhiệm Tích Chức Thánh, Thánh Phaolô nói “đặc sủng (đoàn sủng, hoặc ơn Chúa Thánh Linh)” được trao ban do việc đặt tay (tc. 1 Tim 4:13; 2 Tim 1:6).
Một cách mạnh mẽ ngài tuyên bố chính Chúa Thánh Linh là Đấng “chỉ định” các giám mục trong Hội Thánh (tc. Cv 20:28). Những đoạn khác trong các Thư của Thánh Phaolô và Công Vụ Tông Đồ làm chứng mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Thánh Linh và các người thừa tác của Chúa Kitô, nghĩa là các tông đồ và những người cộng tác với các ngài, và sau này là những người kế vị các ngài: các giám mục, linh mục và phó tế.
Những vị đó là những người thừa kế không phải chỉ sứ mệnh của các tông đồ, mà cũng thừa kế cả đặc sủng (đoàn sủng) của các ngài nữa, như chúng ta sẽ thấy trong bài giáo lý sắp tới. Sau cùng, cha muốn nhắc tới Nhiệm Tích Hôn Phối, “mầu nhiệm cao cả này ... nhắc đến Chúa Kitô và Giáo hội” (Eph 5:32).
Trong hôn nhân, nhân danh Chúa Kitô và nhờ Ngài, một giao ước được thiết lập giữa hai người, một người nam và một người nữ, một cộng đồng yêu thương đem lại sự sống. Nhiệm Tích này là sự tham dự của loài người trong đó tình yêu thần linh đã được “tuôn đổ vào trái tim chúng ta nhờ Chúa Thánh Linh” (Rom 5:5).
Theo Thánh Augustine, Ngôi Ba Thiên Chúa là sự “hiệp thông đồng bản thể” (communion consubstantialis) giữa Chúa Cha và Chúa Con (tc. De Trinitate, VI, 5. 7, PL 42, 928). Qua Nhiệm Tích Hôn Phối, Thánh Linh tạo thành “sự hiệp thông con người giữa những cá thể”, (giữa một người) nam và (một người) nữ.
Để kết luận bài giáo lý này, chúng ta ít nhất đã đưa ra nét đại cương về chân lý sự hiện diện của Chúa Thánh Linh hoạt động trong đời sống nhiệm tích của Giáo Hội, như chúng ta thấy từ Sách Thánh, Truyền Thống và đặc biệt là từ Phụng Vụ Nhiệm Tích, chúng ta chắc chắn nhấn mạnh đến nhu cầu tiếp tục đào sâu sự hiểu biết về tín điều kỳ diệu này. Chúng ta cũng không thể không ân cần khuyến cáo mọi người sống nhiệm tích, tuân phục và trung thành hơn nữa đối với Chúa Thánh Linh là Đấng qua “các phương tiện cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập” đem lại việc hoàn thành sứ mệnh Giáo Hội được ủy thác thi hành cho việc cứu độ thế giới.
Buổi gặp chung ngày 30 tháng Giêng, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
67. Chúa Thánh Linh Là Căn Nguyên Mọi Thừa Tác Vụ
Muốn hoàn toàn trưởng thành trong đời sống đức tin, để chuẩn bị cho các Nhiệm Tích và không ngừng giúp đỡ cá nhân và cộng đoàn đáp ứng ân sủng được ban cho nhờ những “phương tiện cứu độ,” Giáo Hội có cơ cấu thừa tác (nghĩa là các cơ chế và chức năng phục vụ, diakonie), một số chức năng này có thể chế thần linh (divine institution).
Những chức năng chính yếu này là giám mục, linh mục và phó tế. Công Vụ Tông Đồ ghi lại những lời bất hủ của Thánh Phaolô nói với các trưởng lão (giám mục) thuộc giáo đoàn tại Ephesus: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Linh đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa đã được mua bằng máu của chính Chúa Kitô” (Cv 20:28).
Lời khuyên này của Thánh Phaolô cho thấy mối liên kết ràng buộc vốn hiện hữu giữa Chúa Thánh Linh và công việc phục vụ của phẩm trật thừa tác trong Giáo Hội. Chúa Thánh Linh, luôn luôn hoạt động trong Giáo Hội, giúp đỡ Giáo Hội kiên trì theo chân lý của Chúa Kitô được thừa hưởng từ các tông đồ và thông ban cho các thành viên tất cả mọi kho tàng phong phú của đời sống nhiệm tích. Chúa Thánh Linh cũng là Đấng “tuyển chọn, chỉ định, bổ nhiệm, các giám mục,” như chúng ta đọc trong Công Vụ Tông Đồ.
Chỉ định các giám mục không phải chỉ có nghĩa là nêu danh tánh các vị đó vào chức vụ, nhưng là nguyên lý ban sự sống cho sứ vụ thừa tác ơn cứu độ của các ngài trong Giáo Hội từ lúc khởi đầu. Tương tự như các giám mục, các thừa tác phụ tá cũng được Chúa Thánh Linh tuyển chọn. Chúa Thánh Linh là tác giả và là Đấng ban sức mạnh thần linh, tinh thần, mục vụ của toàn thể cơ cấu thừa tác mà Chúa Kitô đã ban cho (thiết lập trong) Giáo Hội và được xây dựng trên các tông đồ. Thánh Phaolô nói trong Thư I gửi giáo đoàn Corinth, trong Giáo Hội “có nhiều hình thức phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa” (1 Cor 12:5).
Các tông đồ ý thức rõ ràng chân lý này trước tiên liên quan tới chính các ngài trong nhiệm vụ rao giảng tin mừng và quản trị. Do đó Thánh Phêrô, khi nói với các tín hữu đã lan rộng khắp nhiều miền đất khác nhau thuộc thế giới ngoại giáo, đã nhắc các tín hữu này nhớ việc rao giảng Tin Mừng thể hiện “nhờ Chúa Thánh Linh được phái từ trời xuống” (1 Pet 1:12).
Cũng tương tự, Thánh Phaolô nhiều lần tiết lộ cùng ý thức đó trong các thư của ngài. Thánh Phaolô viết trong Thư II gửi giáo đoàn Corinth: “Khả năng của chúng tôi phát xuất từ Thiên Chúa, chính Ngài đã ban cho chúng tôi khả năng phục vụ giao ước mới, không phải bằng văn tự nhưng bằng thần linh (thần khí)” (2 Cor 3:5-6).
Theo Thánh Phaolô, “việc phục vụ giao ước mới” nhận được sự sống từ Chúa Thánh Linh, nhờ Ngài mà việc truyền bá Tin Mừng Phúc Âm và toàn thể công cuộc cứu độ đã đang và sẽ được thực hiện. Thánh Phaolô được đặc biệt gọi thi hành những nhiệm vụ này giữa các quốc gia ngoài Israel. Ngài tự giới thiệu với những người ở Roma rằng ngài đã nhận được ân sủng làm “người phục vụ Chúa Giêsu Kitô giữa các dân ngoại trong việc thi hành tác vụ tư tế Phúc Âm của Thiên Chúa, để lễ phẩm dân ngoại hiến dâng lên, nhờ Chúa Thánh Linh thánh hóa, mà đáng được Thiên Chúa chấp nhận,” (Rom 15:16).
Toàn thể tông đồ đoàn biết các ngài được Chúa Thánh Linh linh ứng, truyền lệnh và tác động trong việc phục vụ các tín hữu, như có thể thấy từ tuyên ngôn kết thúc Công Đồng các tông đồ và cộng tác viên thân tín nhất của các ngài, là các trưởng lão, tại Jerusalem: “Đó là quyết định của Chúa Thánh Linh và của chúng tôi ...” (Cv 15:28).
Thánh Tông Đồ Phaolô nhiều lần “nói về Thánh Linh và quyền năng của Ngài” để minh xác: nhờ Chúa Thánh Linh, Thánh Phaolô mới thi hành được tác vụ của ngài. Trong thư của ngài không có “ngôn từ cao cả (lời nói khôn khéo hấp dẫn)” và cũng chẳng có “những lời nói khôn ngoan thuyết phục” (1 Cor 2:1,4). Với tư cách một tông đồ, Thánh Phaolô nói bằng ngôn ngữ “không ... do sự khôn ngoan của loài người dạy cho, nhưng bằng những lời học được từ Chúa Thánh Linh, dùng lời lẽ thần linh để diễn tả những điều siêu nhiên” (1 Cor 2:13).
Chính tại đây Thánh Phaolô phân biệt rõ ràng giữa “con người theo tự nhiên” không hiểu được “những điều thuộc về thần linh Thiên Chúa” và “con người theo thần khí” có thể “suy xét phán đoán mọi sự” (tc. 1 Cor 2:14-15) trong ánh sáng chân lý được Thiên Chúa mạc khải. Thánh Tông Đồ có thể nói về chính ngài (và về những người khác rao giảng lời Chúa Kitô) rằng “những điều này (những điều liên quan tới các mầu nhiệm thần linh) Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta nhờ Thánh Linh, vì Thánh Linh thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:10).
Quan niệm của Thánh Phaolô về chức tông đồ phục vụ của ngài tương hợp với ý thức về uy lực của Chúa Thánh Linh hiện diện và hoạt động trong sứ vụ của ngài. Chúng ta nhớ lại tổng hợp tuyệt vời của toàn thể sứ vụ của Thánh Phaolô: “Chúng tôi không rao giảng chính mình nhưng rao giảng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, còn chúng tôi chỉ là nô lệ của anh chị em vì Chúa Giêsu” (2 Cor 4:5). Những lời này cũng diễn đạt cách khéo léo tư tưởng và ý định trong tâm hồn Thánh Phaolô. Những lời quả quyết này giúp chúng ta hiểu các sứ vụ của Giáo Hội và trong Giáo Hội suốt mọi thời đại.
Những lời đó là chìa khóa thiết yếu để hiểu sứ mệnh Giáo Hội theo đường lối Phúc Âm. Những lời đó là nền tảng linh đạo cần phải rực nở nơi những người kế vị các tông đồ và cộng tác viên của các ngài: một phục vụ yêu thương khiêm tốn, nhưng ý thức điều mà Thánh Phaolô minh họa trong Thư I gửi giáo đoàn Thessalonica: “Phúc Âm chúng tôi loan báo không phải chỉ đến với anh chị em bằng lời nói, nhưng cũng trong quyền năng và trong Chúa Thánh Linh, và với niềm xác tín sâu xa” (1 Thes 1:5).
Chúng ta có thể nói những lời đó tựa như tọa độ, giao điểm, giúp chúng ta nhận ra vị thế của thừa tác vụ trong Giáo Hội, tinh thần phục vụ và ý thức quyền năng Chúa Thánh Linh hoạt động trong Giáo Hội. Lòng phục vụ khiêm tốn và sức mạnh tâm linh đến từ niềm xác tín Chúa Thánh Linh phụ giúp và nâng đỡ chúng ta trong thừa tác vụ, nếu chúng ta tuân phục và trung thành với hoạt động của Ngài trong Giáo Hội. Thánh Phaolô xác tín hoạt động của ngài phát xuất từ nguồn siêu việt đó. Ngài không ngần ngại viết cho giáo đoàn Roma: “Vậy đối với Chúa Giêsu Kitô, tôi có lý do hãnh diện về những điều thuộc về Thiên Chúa.
Vì tôi không dám nói đến truyện gì khác ngoài những điều Chúa Kitô đã dùng tôi, bằng lời nói và việc làm, mà thực hiện để dẫn đưa Dân ngoại đến tuân phục Chúa, nhờ sức mạnh các dấu lạ điềm thiêng, do quyền năng của Thánh Linh ...” (Rom 15:17-19).
Thánh Phaolô nói với giáo đoàn tại Thessalonica: “Phúc Âm chúng tôi rao giảng đến với anh chị em không phải chỉ bằng lời nói, nhưng cũng trong sức mạnh và trong Chúa Thánh Linh và với nhiều xác tín.
Anh chị em biết chúng tôi là loại người nào ở với anh chị em vì ích lợi cho anh chị em.” Vì vậy Thánh Phaolô cảm thấy ngài có thể đưa ra với tín hữu ở Thessalonica lời chứng hùng hồn sau đây: “Anh chị em đã bắt chước chúng tôi và theo gương Chúa, tiếp nhận lời Chúa mà phải nhiều đau khổ, với niềm vui từ Chúa Thánh Linh, để anh chị em trở nên gương mẫu cho tất cả các tín hữu ở Macedonia và Achaia ...” (1 Thes 1:6-7).
Đây là viễn ảnh huy hoàng nhất, và phải là nhiệm vụ quan trọng nhất đối với tất cả những người được kêu gọi thi hành thừa tác vụ trong Giáo Hội phải sống, như Thánh Phaolô, không những chỉ là các nhà giảng thuyết, nhưng cũng là nhân chứng đức tin và gương mẫu về cuộc sống. Các vị đó cũng phải là gương mẫu hành động ngõ hầu tất cả các tín hữu cũng trở nên như các ngài trong chính Giáo Hội và giữa vô số giáo đoàn đặc biệt.
Theo lệnh Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ, vinh quang đích thực của thừa tác vụ phải phục vụ việc rao giảng “việc ăn năn cải đổi và ơn tha thứ” (Lc 24:47). Đúng vậy, phục vụ việc rao giảng Tin Mừng là một thừa tác vụ khiêm tốn, nhưng cũng là thừa tác vụ vẻ vang. Tất cả những người được kêu gọi thực thi thừa tác vụ trong Giáo Hội có thể nhận lấy cho mình hai cách diễn tả tâm tư của Thánh Phaolô. Trước nhất: “Tất cả mọi điều này đều từ Thiên Chúa, Đấng đã qua Chúa Kitô cho chúng ta được hòa giải với Ngài và trao cho chúng ta thừa tác vụ hòa giải; đó là, Thiên Chúa làm hòa với thế gian trong Chúa Kitô ... Vì thế chúng ta là sứ giả của Chúa Kitô, như thể Thiên Chúa dùng chúng ta mà kêu gọi.
Thay mặt Chúa Kitô chúng tôi kêu nài anh chị em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2 Cor 5:18-20). Thứ nhì, trong một văn bản khác, Thánh Phaolô coi “thừa tác vụ của giao ước mới” là “thừa tác vụ của Thánh Linh” (2 Cor 3:6) và so sánh với thừa tác vụ của ông Moses trên núi Sinai trong tư cách trung gian của luật cũ (tc. Xh 24:12), ngài nhận định: nếu ông Moses “được vinh hiển quá sức đến độ dân Do Thái không thể nhìn thẳng mặt ông (Moses) vì vinh quang chói lọi mà vinh quang đó sẽ qua đi, thì thừa tác vụ của Thánh Linh phải được vinh quang hơn biết chừng nào?” So với vinh quang của giao ước mới thì vinh quang xưa chẳng thấm vào đâu (2 Cor 3:7-10).
Vinh quang thừa tác vụ của Thánh Linh mà Thánh Phaolô mô tả trên đây là vinh quang của việc làm hòa đã được thể hiện trong Chúa Kitô. Đó là vinh quang của việc phục vụ được ban cho anh chị em của chúng ta qua việc rao giảng thông điệp cứu độ. Đó là vinh quang của việc đã rao giảng “không phải chính chúng tôi, nhưng rao giảng về Chúa Giêsu Kitô” (2 Cor 4:5). Chúng ta nhắc lại điều này thêm lần nữa: đây là vinh quang thánh giá! Giáo Hội đã thừa hưởng từ các tông đồ ý thức sự hiện diện và giúp đỡ của Chúa Thánh Linh.
Công Đồng Vatican II xác nhận điều này trong Hiến Chế Lumen Gentium: “Chúa Thánh Linh ngự trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (tc. 1 Cor 3:16; 6:19). Trong họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử (tc. Gal 4:6; Rom 8:15-16, 26).
Chúa Thánh Linh thông đạt cho Giáo Hội toàn thể chân lý (tc. Jn 16:13). Ngài thống nhất Giáo Hội trong việc kết hiệp và phục vụ. Ngài xây dựng và dẫn dắt Giáo Hội bằng nhiều ân huệ khác nhau theo phẩm trật và đoàn sủng, trang bị Giáo Hội bằng hoa trái của Ngài (tc. Eph 4:11-12; 1 Cor 12:4; Gal 5:22)” (LG 4).
Ý thức thâm sâu này phát sinh ra thái độ bình an mà các mục tử đoàn chiên Chúa Kitô vẫn duy trì được dầu rằng vào những lúc thế giới và Giáo Hội bị xáo trộn. Các ngài biết điều đó ngoài tầm những giới hạn và bất toàn của mình, các ngài có thể dựa vào Chúa Thánh Linh Đấng là linh hồn Giáo Hội và hướng dẫn lịch sử.
Buổi gặp chung ngày 6 tháng Hai, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
68. Thánh Linh là Nguồn Mạch Ân Sủng Thiêng Liêng
Chúng ta đã kết bài giáo lý trước bằng văn kiện trích từ Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II, và bây giờ nhắc lại để mở đầu cho bài giáo lý này. “Chúa Thánh Linh ngự trong Giáo Hội và nơi trái tim các tín hữu, như trong một đền thờ (tc. 1 Cor 3:16; 6:19).
Trong các tín hữu Ngài cầu nguyện thay cho họ và làm chứng sự kiện rằng họ là con cái được thừa nhận (tc. Gal 4:6; Rom 8:1516, 26). Giáo Hội, mà Chúa Thánh Linh hướng dẫn tới toàn chân lý (tc. Jn 16:13)
. Ngài thống nhất Giáo Hội trongi việc kết hiệp và phục vụ. Ngài trang bị và hướng dẫn Giáo Hội bằng nhiều ân huệ khác nhau theo phẩm trật và đoàn sủng, làm cho Giáo Hội rực rỡ bằng hoa trái của Ngài” (tc. Eph 4:11-12; 1 Cor 12:4; Gal 5:22)” (LG 4). Trong bài giáo lý trước, chúng ta đã nói về cơ cấu phục vụ (thừa tác vụ) của Giáo Hội được Chúa Thánh Linh soi dẫn và nâng đỡ, bây giờ chúng ta bước sang phần thảo luận, tiếp theo đường lối tư tưởng của Công Đồng, các ân sủng thiêng liêng và đoàn sủng được ban cho Giáo Hội do dator munerum, Đấng ban phát các ân sủng, như Chúa Thánh Linh được kêu cầu trong bài luân ca (ca tiếp liên) Lễ Hiện Xuống.
Ở đây chúng ta cũng có thể dựa trên các thư của Thánh Phaolô về giáo lý để giải thích nguồn ân sủng thiêng liêng cách tổng hợp như sách giáo lý đòi hỏi. Chúng ta đọc trong Thư I gửi giáo đoàn tại Corinth: “Có nhiều ân sủng khác nhau nhưng cùng một Thánh Linh; có nhiều thừa tác vụ khác nhau nhưng cùng một Chúa; có nhiều công việc nhưng cùng một Thiên Chúa Đấng hoàn thành tất cả trong mọi người” (1 Cor 12:4-6).
Trong những câu này tính cách đa dạng của đặc sủng được đặt chung với tính cách đa dạng của thừa tác vụ và công việc. Điều này cho thấy Chúa Thánh Linh là Đấng ban kho tàng ân sủng đa dạng kèm với các thừa tác vụ và đời sống đức tin, bác ái, cộng đồng và hợp tác huynh đệ của các tín hữu, như được ghi trong lịch sử các tông đồ và các cộng đồng Kitô hữu đầu tiên. Thánh Phaolô ngưng lại để nhấn mạnh tính cách đa dạng của ân sủng: “Người này được Thánh Linh ban ơn khôn ngoan để giảng dạy, người khác được ban ơn trình bày sự hiểu biết. Nhờ Thánh Linh người này nhận được đức tin; cũng do một Thánh Linh đó người khác được ban ơn chữa lành bệnh, và người khác nữa được ơn làm phép lạ. Ơn nói tiên tri được ban cho người này ... Người kia nhận được ơn ngôn ngữ (nói tiếng lạ)” (1 Cor 12:8-10). Chúng ta phải ghi nhận Thánh Tông Đồ chưa điểm danh hết các ơn Chúa Thánh Linh.
Thánh Phaolô nêu ra chỉ những ân sủng có ý nghĩa đặc biệt đối với Giáo Hội thời đó. Những ân sủng này vẫn còn hiển lộ trong những thời đại sau này, nhưng vô giới hạn, không phải vào lúc đầu cũng chẳng phải vào lúc cuối, bất cứ nơi nào sẵn sàng đón nhận thì Chúa Thánh Linh sẵn sàng ban những đặc sủng luôn mới để đáp ứng nhu cầu mới. Vì thế, “Thánh Linh tỏ mình ra nơi mỗi người một cách vì lợi ích chung” (1 Cor 12:7).
Khi nhu cầu mới và vấn đề mới xảy đến cho cộng đồng, lịch sử Giáo Hội cho thấy sự hiện diện của những ân sủng mới. Bất cứ tình huống nào, bất cứ hình thức ân sủng nào, ngay cả khi ưu tiên số một là để giúp người nhận được ân sủng đó (chẳng hạn như ơn nói nhiều ngôn ngữ, mà Thánh Tông Đồ nói tới: tc. 1 Cor 14:5-18), tất cả các ơn này nhập chung với nhau vì lợi ích chung. Những ơn đó phục vụ việc xây dựng “một Thân Thể (một Nhiệm Thể Chúa Kitô)”: “Chỉ trong một Thánh Linh mà tất cả chúng ta ... được thanh tẩy trở nên một thân thể.
Tất cả chúng ta đều được uống một Thánh Linh duy nhất” (1 Cor 12:13). Vì vậy Thánh Phaolô khuyến cáo giáo đoàn tại Corinth: “Vì anh chị em khao khát ân sủng thiêng liêng, anh chị em hãy cố gắng để được dồi dào những ân huệ đó để xây dựng Giáo Hội” (1 Cor 14:12).
Trong cũng văn bản này chúng ta gặp lời hô hào “tìm kiếm ... ơn nói tiên tri” (1 Cor 14:1), ơn này thường “có ích” cho cộng đồng hơn ơn ngôn ngữ. “Người nói tiếng lạ thì không nói với người ta mà nói với Thiên Chúa. Không ai hiểu điều người đó nói vì nhờ Thánh Linh người đó nói ra những điều bí nhiệm. Trái lại ngôn sứ nói với người ta để xây dựng, khuyến khích, an ủi người ta. Người đó (ngôn sứ) xây dựng Giáo Hội” (1 Cor 14:2-3).
Chúng ta có thể nói trong các tông đồ thì rõ ràng Thánh Phaolô chuộng “việc xây dựng” đặc sủng (đoàn sủng). Tuy nhiên, ngài khuyến cáo ơn có ích lợi chung cho cộng đoàn hơn hết: “Anh chị em hãy tha thiết tìm cho được đức yêu thương” (1 Cor 14:1). Lòng bác ái huynh đệ, bắt nguồn từ tình yêu mến Thiên Chúa, là “phương cách hoàn hảo hơn” Thánh Phaolô khăng khăng nài nỉ và ca tụng trong một ca vịnh có sức mạnh lôi cuốn vĩ đại và linh đạo tuyệt vời (tc. 1 Cor 13:1-3).
Trong Hiến Chế Lumen Gentium, Công Đồng Vatican II tiếp tục giáo huấn của Thánh Phaolô về các ơn Chúa Thánh Linh, và đặc biệt về thần ân (đặc sủng, đoàn sủng), để định rõ những ơn này: “Phải nhận lãnh những đặc sủng (đoàn sủng) này, từ những ơn chói lọi nhất đến những ơn thông thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và an ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp toàn hảo với nhu cầu của Giáo Hội. Nhưng không liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt và cũng đừng vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả không phải để dập tắt Thánh Linh, nhưng để trắc nghiệm và giữ lại những điều thiện hảo (tc. 1 Thess 5:12; 19:21)” (LG 12).
Đoạn văn này đầy ắp khôn ngoan mục tử. Chúng ta thấy đoạn văn này của Công Đồng hợp với những khuyến cáo và tiêu chuẩn Thánh Phaolô đưa ra cho giáo đoàn tại Conrinth để giúp họ hiểu đúng về thần ân (đặc sủng, đoàn sủng) và cần phải thấu triệt các ân sủng đích thực của Chúa Thánh Linh. Theo Công Đồng, các đặc sủng quan trọng đặc biệt được ban cho những người, mà Chúa Thánh Linh đặt lên giữa các tín hữu, để phục vụ sự sung mãn đời sống thiêng liêng, cách riêng cho những người được mô tả dưới nhiều hình thức về đời sống thánh hiến theo linh đạo Phúc Âm.
Hiến Chế Lumen Gentium dạy: “Những lời Phúc Âm khuyên về đức trinh khiết để tận hiến cho Thiên Chúa, đức khó nghèo và vâng phục, đều đặt trên nền tảng lời nói và gương sáng của Chúa, đã được các tông đồ và các Giáo Phụ, các Tiến Sĩ và các chủ chăn khuyên giữ.
Những lời khuyên này là ân huệ thần linh Giáo Hội nhận được từ Chúa và nhờ ơn Chúa mà luôn luôn trung thành tuân giữ. Theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, giáo quyền có bổn phận giải thích các lời khuyên của Phúc Âm, hướng dẫn cách thực hành và thiết lập những lối sống cố định ... Bậc sống tu trì ... cho mọi người thấy rõ ràng quyền lực cao trọng tuyệt vời (tuyệt đối) của Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Linh hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội. Vì thế, bậc sống trinh khiết tận hiến được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, mặc dầu không liên quan đến cơ cấu phẩm trật Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên không thể chối cãi là gắn liền với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. ... Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, hàng giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam nữ sáng lập viên lỗi lạc đề nghị và chính thức phê chuẩn những tu luật này” (LG 43-45).
Khái niệm này về Chúa Thánh Linh hoạt động trong đời sống tu trì thì đặc biệt quan trọng. Hầu như xuyên qua đời sống tu trì, Thiên Chúa Ngôi Ba làm cho thấy được hoạt động Ngài thể hiện trong toàn Giáo Hội để hướng dẫn các tín hữu tới đức ái toàn thiện. Điều cũng chính đáng là nhận biết Chúa Thánh Linh hiện diện hoạt động trong những nỗ lực của tất cả mọi người – giám mục, linh mục, phó tế và giáo dân nam nữ thuộc đủ mọi cấp bậc – những người cố gắng sống Phúc Âm trong bậc (sống) của mình.
Trong số 13 của Hiến Chế Lumen Gentium, Công Đồng nhìn nhận Giáo Hội có “nhiều dòng tu khác nhau,” tất cả những dòng tu này đều biểu lộ “ân sủng đa dạng của Thiên Chúa.” Điều đáng kể đối với từng người là “mỗi người nhận được ân sủng, sử dụng ân sủng đó để phục vụ lẫn nhau” (1 Pet 4:10).
Cộng đồng Giáo Hội là kết quả của các ân sủng dồi dào và nhiều loại khác nhau; Giáo Hội duy nhất và toàn cầu (công giáo, phổ quát) giữa các dân tộc, truyền thống, ơn gọi và đời sống tinh thần khác nhau. Việc làm của Chúa Thánh Linh biểu lộ, thể hiện với tính cách đa dạng và phong phú của đặc (đoàn) sủng kèm theo các tác vụ dưới nhiều hình thức và trình độ khác nhau theo nhu cầu thời đại và địa phương.
Chẳng hạn, chúng ta thấy Chúa Thánh Linh hoạt động trong việc giúp đỡ người nghèo khó, người bệnh tật, bất hạnh, tật nguyền hoặc những người đau khổ dưới nhiều hình thức tàn phế; Chúa Thánh Linh hoạt động trên bình diện cao hơn, khi cố vấn, hướng dẫn tinh thần (linh hướng) mưu cầu hòa bình giữa các đối thủ, cải hóa tội nhân, lôi kéo người ta đến với lời Thiên Chúa, tính cách hữu hiệu của giảng huấn và sách vở, dạy đức tin, khuyến khích người ta làm việc thiện, v.v.
Thánh Thomas nhận xét: Chúa Thánh Linh chia sẻ tình yêu thương và sự thánh thiện của Ngài với Giáo Hội là các đặc (đoàn) sủng vô giới hạn, tương tự như trong đại cuộc tạo dựng: Đấng Tối Cao duy nhất chia sẻ với mọi thụ tạo sự toàn thiện vô cùng của Ngài (tc. Summa Theol., II-II q, 183. a. 2).
Cách tổng quát, những đặc sủng này không mâu thuẫn với bản chất phẩm trật tác vụ và “các chức vụ” được thiết lập vì mục đích hiệp nhất, điều hành chính đáng và vẻ đẹp của Giáo Hội. Hệ thống phẩm trật và toàn thể cấu trúc thừa tác vụ của Giáo Hội cũng do các thần ân, như Thánh Phaolô nói trong Thư gửi ông Timothy: “Xin anh đừng thờ ơ với ân sủng đã nhận được, nhờ lời ngôn sứ, khi các trưởng lão đặt tay trên anh” (1 Tim 4:14).
“Tôi xin nhắc anh khơi dậy ngọn lửa đặc sủng Thiên Chúa đã ban khi tôi đặt tay trên anh” (2 Tim 1:6). Vì thế, có đặc sủng dành cho Tông Đồ Phêrô, có những đặc sủng dành riêng cho các giám mục, linh mục và phó tế, có đặc sủng ban cho những người được gọi lãnh chức vụ trong Giáo Hội, một thừa tác vụ. Vấn đề là khám phá và nhìn nhận và lãnh nhận các thần ân này, nhưng không tự cao tự đại. Vì thế Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn tại Corinth: “Tôi không muốn để anh chị em không biết chút gì về các ơn Chúa Thánh Linh (các thần ân)” (1 Cor 12:1).
Kế đó ngài bắt đầu chỉ dẫn về các thần ân, đưa ra một số chỉ dẫn cho các dự tòng tại Corinth về cách cư xử bất chính mà họ phải từ bỏ. Ngài nói: “Vì thế, tôi nói cho anh chị em biết ... không một ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ nếu không ở trong Thánh Linh (Thần Khí)” (1 Cor 12:3). Đây là một chân lý, cùng với chân lý về Chúa Ba Ngôi, là nền tảng đức tin Kitô Giáo. Việc tuyên xưng lòng tin vào chân lý Thiên Chúa Ba Ngôi là một đặc ân của Chúa Thánh Linh.
Vì thế việc tuyên xưng này là hành động lớn lao hơn nhiều so với việc làm chỉ theo tri thức của con người. Trong hành động này của đức tin Chúa Thánh Linh “được và phải được hiển lộ” nơi môi miệng và nơi trái tim tất cả mọi tín hữu đích thực (tc. 1 Cor 12:7). Tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa là ứng nghiệm đầu tiên và căn bản nhất điều Chúa Giêsu đã nói tại Tiệc Ly: “Ngài (Chúa Thánh Linh) sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:14).
Buổi gặp chung ngày 27 tháng Hai, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
69. Chúa Thánh Linh Là Đấng An Ủi Khác
Trong lời từ biệt các môn đệ tại Tiệc Ly đêm trước khi chịu khổ nạn cứu độ, Chúa Giêsu hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng An Ủi khác ở với anh em luôn mãi” (Jn 14:16).
Từ ngữ “Đấng An Ủi” chuyển dịch từ tiếng Hy Lạp Parákletos là danh hiệu Chúa Giêsu đặt cho Chúa Thánh Linh. Tại căn phòng trên lầu, Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ sự hiện diện liên tục của Chúa Thánh Linh để an ủi các ông vì Chúa Kitô ra đi (tc. Jn 16:6-8). Chúa Thánh Linh sẽ là “Đấng An Ủi khác” mà Chúa Cha phái đến nhân danh Chúa Kitô, khi sứ mệnh Thiên Sai của Chúa Kitô hoàn tất bằng việc Ngài rời khỏi trần thế trở về với Chúa Cha.
Cuộc ra đi qua tử nạn thập giá và phục sinh của Chúa Kitô là việc cần thiết để “Đấng An Ủi khác” đến. Chúa Giêsu khẳng định điều này: “Nếu Thầy không đi, thì Đấng An Ủi sẽ không đến với anh em” (Jn 16:7). Hiến Chế Dei Verbum (Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa) của Công Đồng Vatican II trình bày việc gửi “Thánh Linh chân lý” đến là thời điểm kết thúc tiến trình mạc khải và cứu độ theo chương trình đời đời của Thiên Chúa (tc. DVer 4).
Và tất cả chúng ta, trong bài ca tiếp liên Lễ Hiện Xuống, kêu cầu Ngài: “Xin hãy đến, lạy Đấng An Ủi tuyệt vời!” Theo những lời Chúa Giêsu nói về Đấng An Ủi, chúng ta nghe vọng âm từ các Sách Cựu Ước, đặc biệt là “Sách về Đấng An Ủi dân Israel” gồm những tác phẩm gom lại dưới danh hiệu ngôn sứ Isaiah: “Thiên Chúa phán, hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta ... Hãy dịu dàng nói với Jerusalem và loan báo cho Jerusalem biết thời kỳ phục dịch của nó đã mãn, tội lỗi của nó đã được đền bù” (Is 40:1-2).
Và sau nữa, “Hỡi các tầng trời, hãy vui mừng, và trái đất, hãy nhảy mừng; hỡi các núi đồi hãy reo hò, vì Chúa an ủi dân Ngài” (Is 49:13). Đối với dân Israel thì Thiên Chúa tựa như người phụ nữ không thể quên con của bà. Trong sách ngôn sứ Isaiah, Chúa phán: “Cho dù (một người mẹ) bỏ quên (con mình) đi nữa, Ta sẽ không khi nào quên các ngươi” (Is 49:15). Ngoài lời loan báo việc dân Israel trở về Jerusalem sau cuộc lưu đày, trong phần kết thúc khách quan lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah như sau: lời hứa “sự an ủi” bao gồm nội dung thiên sai mà các người Israel đạo đức, trung thành với truyền thống tổ tiên họ, đã trông chờ cho tới trước thềm Tân Ước.
Như thế chúng ta có thể giải thích sự kiện trong Phúc Âm theo Thánh Luca: cụ già Simeon hằng “trông chờ ơn an ủi dân Israel; Chúa Thánh Linh ở với cụ. Cụ Simeon được cho biết cụ sẽ không chết trước khi thấy Đấng Thiên Sai của Chúa” (Lc 2:25-26). Theo Thánh Luca, ngài nói về những sự việc đã xảy ra và tường thuật những sự việc đó theo bối cảnh mầu nhiệm Nhập Thể, thì chính Chúa Thánh Linh là Đấng hoàn tất lời hứa đã được tiên báo về việc Đấng An Ủi đệ Nhất là Chúa Kitô đến trần gian. Chính Chúa Thánh Linh làm cho Đức Maria bẩm thai Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể (tc. Lc 1:35).
Chính Chúa Thánh Linh soi sáng cụ già Simeon và đưa cụ vào Đền Thờ đúng lúc hiến dâng Chúa Hài Đồng Giêsu (tc. Lc 2:27). Chính nhờ Chúa Thánh Linh mà vào lúc khởi đầu sứ mệnh thiên sai, Chúa Kitô nhắc lại lời ngôn sứ Isaiah sau đây: “Thánh Linh của Chúa ở trên Tôi vì Ngài đã xức dầu cho Tôi để đem tin mừng cho người nghèo khó. Ngài đã phái Tôi đi loan báo việc giải phóng những người bị tù đày và phục hồi ánh sáng (sự sáng mắt) cho người mù lòa, giải phóng những người bị áp bức” (Lc 4:18; tc. Is 61:1 f).
Nhìn từ viễn ảnh tiên tri, Đấng An Ủi mà ngôn sứ Isaiah tiên báo là Đấng đem Tin Mừng từ Thiên Chúa đến, bảo chứng bằng “những dấu lạ,” nghĩa là bằng những việc làm gồm có sự tốt lành sinh ơn cứu độ của chân lý, sự công chính, tình yêu và tự do: “điều an ủi dân Israel.” Chúa Giêsu Kitô, sau khi hoàn tất sứ mệnh Thiên Sai và trước khi rời khỏi trần gian về với Chúa Cha, đã loan báo “Đấng An Ủi khác,” nghĩa là Chúa Thánh Linh, Đấng mà Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Chúa Con (tc. Jn 14:26).
Khi Chúa Kitô không còn ở trần thế, Chúa Thánh Linh Đấng An Ủi sẽ ở với các tông đồ và Giáo Hội suốt dòng lịch sử mà trong đó sẽ có những giai đoạn dài đau thương qua nhiều thế kỷ (tc. Jn 16:17 ff.). Chúa Thánh Linh ở với Giáo Hội và trong Giáo Hội, đặc biệt trong những lúc xung đột và bách hại, như chính Chúa Giêsu đã hứa với các tông đồ bằng những lời ghi trong các Phúc Âm Nhất Lãm: “Khi người ta đưa anh em ra trước các hội đồng, trước mặt các nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền, anh em đừng sợ phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì. Vì Chúa Thánh Linh lúc đó sẽ dạy anh em điều anh em cần phải nói” (Lc 12:11-13; tc. Mc 13:11).
Thật ra, “Không phải anh em nói mà Thánh Linh của Cha anh em nói qua anh em” (Mt 10:20). Những lời này nhắc lại sự kiện các tông đồ và Kitô hữu thuộc những cộng đoàn các ngài đã thiết lập và coi sóc phải chịu biết bao khổ đau. Nhưng những lời này cũng nhắc đến tất cả mọi người, khắp thế giới qua nhiều thế kỷ, đã chịu đựng vì Chúa Kitô. Thật ra, trải qua nhiều thế kỷ và cả gần đây nữa, nhiều người đã được hưởng sự giúp đỡ này của Chúa Thánh Linh. Những người đó biết và có thể làm chứng cho niềm vui chiến thắng tinh thần mà Chúa Thánh Linh ban cho họ.
Toàn thể Giáo Hội ngày nay biết và làm chứng điều này. Từ ngày khởi đầu tại Jerusalem, Giáo Hội đã luôn luôn phải đương đầu với chống đối và đàn áp. Tuy nhiên, trong Công Vụ Tông Đồ chúng ta đọc được những lời sau đây: “Giáo Hội khắp miền Judea, Galilee và Samaria được bình an. Giáo Hội được xây dựng và sống trong niềm kính sợ Chúa, và Chúa Thánh Linh an ủi cho mỗi ngày một tăng thêm tín hữu” (Cv 9:31). Chính Thánh Linh, Đấng An Ủi mà Chúa Giêsu hứa, đã nâng đỡ các tông đồ và môn đệ Chúa Kitô trong những thử thách và đau khổ đầu tiên, và cũng tiếp tục ban cho Giáo Hội ơn an ủi nâng đỡ trong những thời kỳ bình an nữa.
Sự bình an này cũng như việc tăng thêm số tín hữu và cộng đoàn theo chân lý Phúc Âm đều tùy thuộc vào Chúa Thánh Linh. Đường lối đó là cách mà Giáo Hội đã trải qua suốt mọi thế kỷ. Việc tòng giáo và Phép Rửa cho ông Cornelius, một sĩ quan bách quân Roma, là “niềm an ủi” lớn lao đối với Giáo Hội sơ khai (tc. Cv 10:44-48).
Ông (Cornelius) là người “ngoại giáo” đầu tiên đã cùng với toàn thể gia đình ông gia nhập Hội Thánh và được Thánh Phêrô làm Phép Rửa cho. Từ thời điểm đó, số người ngoại tòng giáo bắt đầu tăng thêm số Kitô hữu, nhất là qua hành động tông đồ của Thánh Phaolô thành Tarsus và các bạn của ngài.
Trong lời Thánh Phêrô nói với Hội Nghị (Công Đồng) các tông đồ và “trưởng lão” họp tại Jerusalem, ngài nhìn nhận công việc của Thánh Linh, Đấng An Ủi: “Quí huynh đệ, anh em biết từ những ngày đầu Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em để qua miệng tôi Dân Ngoại được nghe Tin Mừng và tin theo.
Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, chọn họ và ban Chúa Thánh Linh cho họ như Ngài đã ban cho chúng ta” (Cv 15:7-8). Việc ban Chúa Thánh Linh cho dân ngoại đã tòng giáo là “điều an ủi” cho Giáo Hội truyền giáo, như Thánh Phêrô nói “Thiên Chúa không phân biệt chút nào giữa chúng ta và dân ngoại, vì đức tin thanh tẩy tâm hồn họ” (Cv 15:9). “Ơn an ủi” khác nữa cũng là duy nhất tính được mô tả trong phần này do cuộc họp tại Jerusalem: “Chính Chúa Thánh Linh và chúng tôi quyết định” (Cv 15:28). Khi cộng đồng tại Antioch nghe đọc bức thư viết tại Jerusalem về quyết định có tính cách giải phóng đó, tất cả mọi người đều “hoan hỉ với niềm an ủi (paraklesei) gồm trong quyết định đó” (Cv 15:31).
“Ơn an ủi” khác nữa mà Chúa Thánh Linh dành cho Giáo Hội là việc truyền bá Tin Mừng như là văn bản của giao ước mới. Nếu các sách Cựu Ước, được Chúa Thánh Linh linh ứng, đã là nguồn an ủi và nâng đỡ Giáo Hội, như lời Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Roma (tc. Rom 15:4), thì những sách liên quan đến “tất cả mọi điều Chúa Giêsu đã làm và đã giảng dạy từ lúc khởi đầu” (Cv 1:1) còn hơn gấp bao lần. Nhưng chúng ta có thể nói chắc chắn hơn nữa là những sách đó được viết ra “để chỉ dạy chúng ta rằng chúng ta có thể vững lòng trông cậy nhờ kiên nhẫn chịu đựng và nhờ sự an ủi từ Sách Thánh” (Rom 15:4).
Ơn an ủi khác nữa quy chiếu cho Chúa Thánh Linh (tc. 1 Pet 1:12) là việc ứng nghiệm giáo huấn của Chúa Giêsu, nghĩa là “Tin Mừng nước trời sẽ được rao giảng khắp thế giới làm chứng cho muôn dân biết” (Mt 24:14).
Trong số những dân tộc này, bao gồm mọi thời đại, cũng có những người thời đại này hầu như không màng tới nước trời và bị dẫn đi lạc bởi sự thành công và lôi cuốn của tiến bộ vật chất quá phiến diện. Hoạt động của Chúa Thánh Linh vươn tới cả những người này, cũng như tới tất cả chúng ta. Chúa Thánh Linh không ngừng ban ơn an ủi và nâng đỡ bằng Tin Mừng cứu độ.
Buổi gặp chung ngày 13 tháng Ba, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
70. Chúa Thánh Linh Ngự trong Tâm Hồn Mọi Người
Trong bài giáo lý trước, cha đã nói sẽ trở lại đề tài Chúa Thánh Linh hiện diện và hoạt động trong các linh hồn. Dựa trên thần học và linh đạo phong phú, chúng ta có thể nói những đề tài này tác động sức lôi cuốn, sức hấp dẫn siêu đẳng, đối với những người khao khát cuộc sống tâm linh.
Những đề tài về Chúa Thánh Linh lôi cuốn những người ngoan ngoãn lắng nghe tiếng của Đấng ngự trong họ như trong đền thờ, soi sáng tâm hồn và nâng đỡ những người này theo đường lối phù hợp với Phúc Âm. Đức Leo XIII, vị tiền nhiệm của cha, đã nghĩ tới chính những người này khi ngài viết Tông Huấn Divinum Illud về Chúa Thánh Linh (ngày 9 tháng Năm, 1897) và sau đó Tông Thư Ad Fovendum về lòng sùng mộ của Kitô hữu đối với Chúa Thánh Linh (ngày 18 tháng Tư, 1902), thiết lập tuần chín ngày tôn vinh Chúa Ngôi Ba, đặc biệt nhắm vào việc xin ơn hiệp nhất Kitô giáo (ad maturandum Christianae unitatis bonum).
Vị Giáo Hoàng của Thông Điệp Rerum Novarum (Tân Sự) cũng là vị Giáo Hoàng sùng mộ Chúa Thánh Linh. Ngài cũng biết cần phải rút lấy năng lực từ nguồn mạch nào để đem lại sự tốt lành đích thực trên bình diện xã hội.
Trong Tông Huấn Dominum et Vivificantem (ngày 18 tháng Năm, 1986), cha muốn lưu ý các Kitô hữu thời đại chúng ta về cũng nguồn mạch đó, và lúc này cha sẽ dành phần kết bài giáo lý về Thánh Linh học cho đề tài Chúa Thánh Linh ở giữa chúng ta.
Đời sống Kitô hữu có những đặc tính căn bản là sống nội tâm, cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa. Trong việc sống kết hiệp với Thiên Chúa, có một chân lý được ghi nhận trong Sách Thánh, đặc biệt là những lời Chúa Giêsu và các tông đồ, về Chúa Thánh Linh ngự trong linh hồn người tín hữu như vị khách thần linh ở trong linh hồn người công chính. Trong Thư I gửi giáo đoàn Corinth (3:16),
Thánh Phaolô hỏi: “Anh chị em không biết ... Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh chị em hay sao?” Hiển nhiên, Chúa Thánh Linh hiện diện và hoạt động trong toàn thể Giáo Hội, như chúng ta đã thấy trong các bài huấn giáo trước. Nhưng ứng nghiệm đích thực về sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh xảy ra liên hệ với con người, liên quan tới linh hồn người công chính, nơi Ngài ngự và đổ tràn đầy ân sủng Chúa Kitô đã đạt được cho họ qua ơn cứu chuộc. Hành động này của Chúa Thánh Linh thấu suốt đáy lòng con người, tâm hồn người tín hữu, đổ đầy trên họ ánh sáng và ân sủng đem lại sự sống. Đây là điều chúng ta cầu xin trong luân ca Lễ Hiện Xuống: “Ôi sự sáng thần linh chứa chan hồng phúc, xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn các tín hữu.”
Khi rao giảng vào ngày Chúa Thánh Linh hiện xuống, Tông Đồ Phêrô, sau khi thúc giục những người nghe ngài cải đổi và được thanh tẩy (lãnh Phép Rửa), đã thêm lời hứa: “Anh chị em sẽ nhận được ơn Chúa Thánh Linh” (Cv 2:38). Từ bối cảnh này chúng ta thấy lời hứa đó liên quan trực tiếp từng người cải đổi và được thanh tẩy. Thánh Phêrô nói rõ ràng trực tiếp với “từng người” hiện diện (tc. Cv 2:38).
Về sau, khi nhà phù thủy Simon xin các tông đồ cho ông ta quyền lực nhiệm tích đó, ông ta nói: “Xin các ngài cũng cho tôi quyền lực đó, để tôi đặt tay trên người nào thì người đó có thể nhận được Chúa Thánh Linh” (Cv 8:19). Ơn Chúa Thánh Linh được hiểu là một ân sủng ban cho từng cá nhân. Điều xác nhận này có thể tìm thấy bằng chứng trong tường thuật ông Cornelius và cả gia đình tòng giáo.
Trong khi Thánh Phêrô giải thích cho họ mầu nhiệm về Chúa Kitô, “Chúa Thánh Linh ngự xuống trên tất cả những người đang nghe (thánh Phêrô giảng)” (Cv 10:44). Vì thế Thánh Tông Đồ (Phêrô) nhận biết “Thiên Chúa ban cho họ cùng một ân sủng Ngài đã ban cho chúng ta” (Cv 11:17). Theo lời Thánh Phêrô, việc Chúa Thánh Linh ngự xuống có ý nghĩa là sự hiện diện của Ngài trong những người đó và Ngài truyền thông chính Ngài với họ.
Về sự hiện diện của Chúa Thánh Linh trong con người, chúng ta cần nhớ lại những phương cách hữu hiệu mà theo đó chúng ta nhận ra được sự hiện diện thần linh trong lịch sử ơn cứu chuộc. Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện và hiển lộ trước tiên nơi “lều (hội ngộ)” ở sa mạc, rồi sau đó trong “Nơi Cực Thánh” ở Đền Thờ Jerusalem. Vào thời Tân Ước, sự hiện diện của Thiên Chúa được thể hiện trong và được đồng hóa với việc Ngôi Lời nhập thể. Thiên Chúa hiện diện trong Con hằng hữu của Ngài ở giữa loài người, qua nhân tính mà Chúa Con mặc lấy trong việc ngôi hiệp với thiên tính. Do sự hiện diện hữu hình của Chúa Kitô, Thiên Chúa chuẩn bị một sự hiện diện mới qua Ngài, một sự hiện diện vô hình khi Chúa Thánh Linh hiện xuống.
Thật vậy, Chúa Kitô hiện diện “giữa” nhân loại mở đường cho sự hiện diện của Chúa Thánh Linh trong tâm hồn con người. Như thế ứng nghiệm lời ngôn sứ Ezekiel tiên báo (36:26-27): “Ta sẽ cho ngươi trái tim mới và đặt thần khí mới trong ngươi ... Ta sẽ đặt thần khí của Ta trong ngươi.” Trong đêm trước khi rời khỏi trần thế qua khổ hình thập giá và lên trời về với Chúa Cha, Chúa Giêsu cho các tông đồ biết việc Chúa Thánh Linh ngự đến như sau: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác để ở với anh em luôn mãi, Thánh Linh chân lý ... Ngài sẽ ở trong anh em” (Jn 14:16-17).
Nhưng chính Chúa Giêsu nói việc Chúa Thánh Linh hiện diện trong tâm hồn con người quy kết (suy diễn ra) việc Chúa Cha và Chúa Con ngự trong con người, với một điều kiện là yêu thương: “Người nào yêu mến Thầy thì vui giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người đó, và Chúng Ta đến với người đó và ở trong người đó” (Jn 14:23).
Lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ quy chiếu về Chúa Cha và Chúa Con cũng gồm có Chúa Thánh Linh. Truyền thống theo Thánh Phaolô, các nhà thần học và giáo phụ, quy chiếu việc Chúa Ba Ngôi ngự trong con người cho Chúa Thánh Linh vì Ngài là Ngôi Tình Yêu, và hơn nữa, sự hiện diện trong tâm hồn con người phải là sự hiện diện tinh thần. Sự hiện diện Chúa Cha và Chúa Con qua tình yêu, thế nên tình yêu cũng hiện hữu trong Chúa Thánh Linh.
Chính trong Chúa Thánh Linh mà Thiên Chúa, trong sự hiệp nhất tam vị, hiệp thông chính Ngài với thần khí mỗi cá nhân. Thánh Thomas Aquinas nói chỉ nơi tinh thần con người (và thần khí của thiên thần), cách hiện diện thần linh này mới có thể xảy ra (qua việc Chúa Thánh Linh ngự trong tâm hồn) vì chỉ thụ tạo có lý trí mới biết nhận thức, tình yêu có ý thức và vui hưởng Thiên Chúa như một vị khách trong tâm hồn. Sở dĩ những việc đó có thể xảy ra là nhờ Chúa Thánh Linh, Đấng là ân sủng đệ nhất và thiết yếu nhất (Summa Theol., I, q. 38, a. 1).
Thánh Tông Đồ (Phaolô) nhắc tín hữu tại Corinth: nhờ việc Thiên Chúa ngự trong lòng mà con người trở nên “đền thờ Thiên Chúa (Ba Ngôi)” vì chính “Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong (tâm hồn)” họ (1 Cor 3:16). Thiên Chúa là thánh và thánh hóa con người. Thánh Phaolô nói về điều này như sau: “Anh chị em không biết thân xác anh chị em là đền thờ Chúa Thánh Linh ở trong anh chị em, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em hay sao?” (1 Cor 6:19).
Thánh Phaolô nhấn mạnh: vì thế, việc Chúa Thánh Linh ngự trong con người ám chỉ sự thánh hiến toàn diện con người giống như một đền thờ. Việc thánh hiến này là thánh hóa. Đây là căn cốt ơn cứu chuộc, nhờ đó con người có thể tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như thế nguồn mạch sự thánh thiện nội tâm mở ra trong con người, từ đó có sự sống “theo Thánh Linh,” như lời Thánh Phaolô nói trong Thư gửi tín hữu Roma (8:9): “Nếu chỉ có Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh chị em mà thôi thì anh chị em không bị xác thịt chi phối, trái lại, anh chị em được Thánh Linh chi phối.” Đây là nền tảng cho hy vọng thân xác phục sinh vì: “Nếu Thánh Linh của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại ngự trong anh chị em, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu (từ cõi chết) sống lại cũng sẽ ban sự sống cho thân xác phải chết của anh chị em, nhờ Thánh Linh ngự trong anh chị em” (Rom 8:11).
Chúng ta cần ghi nhận thêm rằng: Chúa Thánh Linh ngự trong con người thánh hóa toàn thể con người, cả xác lẫn hồn, ban cho con người phẩm hạnh cao cả hơn. Như Thánh Phaolô ghi chú trong Thư I gửi giáo đoàn tại Corinth (6:19): Chúa Thánh Linh ngự trong con người ban giá trị mới cho những quan hệ liên ngã, cả những quan hệ thể xác nữa. Vì thế, qua việc Chúa Thánh Linh ngự trong con người, Kitô hữu được đặt trong tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, mà mối tương quan đó vươn rộng tới tất cả mọi mối quan hệ liên bản vị, cả trong gia đình và xã hội.
Khi Thánh Tông Đồ (Phaolô) nói “(anh chị em) đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Linh” (Eph 4:30), ngài nói dựa trên căn bản chân lý mạc khải này: sự đích thân hiện diện của Đấng là vị khách bên trong, Ngài có thể bị tội lỗi (bất cứ tội lỗi nào) “làm cho buồn lòng” vì tội lỗi luôn đối nghịch với tình yêu. Chính Chúa Thánh Linh, với tư cách là Ngôi Thiên Chúa Tình Yêu ngự trong con người, tạo ra trong linh hồn một thôi thúc cần phải sống yêu thương.
Thánh Phaolô nhắn nhủ điều này khi ngài viết cho giáo đoàn Roma “tình yêu (của) Thiên Chúa” (tức là, suối nguồn tình yêu tuôn tràn mãnh liệt từ Thiên Chúa) “đã được trút vào lòng anh chị em nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh mà Ngài đã ban cho chúng ta” (Rom 5:5).
Buổi gặp chung ngày 20 tháng Ba, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
71. Chúa Thánh Linh là Nguồn Sống Mới
Chúa Thánh Linh, vị khách của linh hồn, là nguồn sống mới mà Chúa Kitô chia sẻ với những người tin vào Ngài. Trong sức mạnh Phục Sinh, cuộc sống mới theo “luật Thánh Linh” đã thắng sức mạnh tội lỗi và sự chết vốn hoạt động trong con người từ ngày nguyên tổ lỗi phạm. Chính Thánh Phaolô đã tự đồng hóa với sự xung đột gay cấn này giữa cảm giác nội tâm đối với điều tốt và sức lôi cuốn của sự dữ, của ma quỉ, giữa khuynh hướng của “trí khôn” muốn phụng sự luật Thiên Chúa và sự bạo ngược của “xác thịt” khiến một người khuất phục tội lỗi (tc. Rom 7:14-23).
Thánh Phaolô la lên: “Tôi thật là kẻ khốn nạn! Ai sẽ cứu tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rom 7:24). Nhưng đây là cảm nghiệm nội tâm mới phù hợp với chân lý mạc khải về hành động của ơn cứu độ: “Vì thế từ nay, những người thuộc về Chúa Giêsu Kitô thì không còn bị lên án nữa. Vì luật của Thánh Linh sự sống trong Chúa Kitô Giêsu đã giải phóng anh chị em khỏi luật của tội lỗi và sự chết” (Rom 8:1-2).
Cảm nghiệm đó là sự sống mới bắt đầu trong tâm hồn chúng ta “nhờ Chúa Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rom 5:5). Toàn thể cuộc sống Kitô hữu là sống trong đức tin và đức ái, và thực hành tất cả mọi nhân đức, phù hợp với hành động canh tân của Chúa Thánh Linh, Đấng thông ban ơn công chính hóa, sinh động hóa và thánh hóa. Nhờ ân sủng này mà có tất cả các thánh đức mới tạo thành cơ cấu cho cuộc sống siêu nhiên. Thánh Thomas Aquinas giải thích: “Cuộc sống siêu nhiên phát triển được không phải chỉ do những quan năng tự nhiên của con người: trí năng, ý chí và cảm thức, mà cũng nhờ những khả năng mới cùng với ân sủng Thiên Chúa ban cho” (Summa Theol., I-II, q. 62, aa, I, 3).
“Những ân sủng này làm cho trí năng có khả năng bám vào Chân Lý về Thiên Chúa trong đức tin; ban cho trái tim khả năng yêu mến trong đức ái; đức ái nơi con người giống như “một sự tham dự vào chính Tình Yêu của Thiên Chúa, là Chúa Thánh Linh” (II-II, q. 23, a. 3. ad 3).
Các ân sủng này cũng ban cho linh hồn, và theo cách thích hợp cho thân xác nữa, tất cả mọi khả năng chia sẻ sự sống mới bằng những hành động xứng đáng của những người được nâng lên tham dự bản chất và sự sống của Thiên Chúa trong ân sủng mà theo lời Thánh Phêrô là: “thông phần bản tính Thiên Chúa (consortes divinae naturae)” (2 Pet 1:4).
Trạng thái này giống như một cơ phận nội tạng mới, trong đó luật ân sủng được làm cho hiển hiện: một luật được viết trong trái tim hơn là khắc trên bia đá hoặc viết trên giấy. Thánh Phaolô gọi luật này là “luật của Thánh Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô” (Rom 8:2; tc. St. Augustine, De spiritu et littera, c. 24: PL 44:225; St. Thomas, Summa Theol., I-II, q. 106, a. 1).
Trong những bài giáo huấn trước dành riêng nói về ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh trong đời sống Giáo Hội, chúng ta đã nhấn mạnh tính cách đa dạng của ân sủng mà Ngài ban cho việc phát triển toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Tính cách đa dạng này cũng hiện diện rõ ràng trong đời sống cá nhân Kitô hữu: mỗi người nhận được những ân sủng Chúa Thánh Linh trong hoàn cảnh thực tại của người đó, theo mức độ tình yêu của Thiên Chúa mà từ đó ơn gọi, hành trình và lịch sử tâm linh của mỗi người bắt nguồn.
Chúng ta đọc trong trình thuật Lễ Hiện Xuống là Chúa Thánh Linh tràn đầy toàn thể cộng đồng, nhưng cũng ở mỗi cá nhân hiện diện. Trong khi làn gió, tiêu biểu Chúa Thánh Linh, đã “tràn ngập khắp ngôi nhà nơi các ngài hiện diện” (Cv 2:2), làn gió đó được mô tả cách chính xác là những lưỡi lửa, một biểu tượng khác của Thánh Linh, “đến đậu trên mỗi người hiện diện” (2:3); khi đó “các ngài được tràn đầy Chúa Thánh Linh” (2:4). Ơn tràn đầy Chúa Thánh Linh được ban cho từng người và gồm có nhiều loại ân sủng khác nhau đối với tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống riêng tư của mỗi người.
Trong những hồng ân này, chúng ta muốn nhắc lại và vắn tắt tô đậm những ân sủng mà truyền thống giáo lý và thần học đặc biệt gọi là các ơn Chúa Thánh Linh. Nói cho đúng thì mọi sự đều là ân sủng, cả theo trật tự ân sủng và tự nhiên, và nói một cách tổng quát hơn là ở tất cả mọi thụ tạo.
Tuy nhiên theo ngôn ngữ thần học và giáo lý, danh xưng các ân sủng Chúa Thánh Linh được dành riêng nói về những ân sủng là sức mạnh thần linh tuyệt vời mà Chúa Thánh Linh trút vào linh hồn để hoàn hảo các nhân đức siêu nhiên ngõ hầu ban cho tinh thần nhân loại khả năng hoạt động theo thể thức thần linh (in modo divino) (tc. Summa Theol., I-II, q. 68, aa. 1, 6). Cần phải nói là khái niệm đầu tiên và bản liệt kê các ân sủng Chúa Thánh Linh đã có trong Cựu Ước, đúng ra là trong sách Isaiah, ở đây ngôn sứ quy chiếu cho vị vua thiên sai “một linh khí khôn ngoan và hiểu biết, một linh khí an ủi và sức mạnh, một linh khí tri thức và kính úy Chúa.” Kế đó ngôn sứ (Isaiah) nhắc lại ơn thứ sáu thêm một lần nữa: “sự hân hoan” của nhà vua “sẽ là lòng kính úy Thiên Chúa” (Is 11:2-3).
Trong bản Septuagint (Bảy Mươi) chuyển ngữ tiếng Hy Lạp và trong bản Vulgata, tiếng Latin, của Thánh Jerome, không nhắc lại ân sủng thứ sáu nói trên (theo Isaiah 11:2-3). Mà ơn thứ sáu của Chúa Thánh Linh được gọi là “lòng mộ mến (lòng sùng mộ)” thay vì “lòng kính úy Thiên Chúa,” và lời tiên tri kết như sau: “một linh khí hiểu biết và lòng thương xót, và người đó sẽ tràn đầy linh khí kính sợ Chúa” (Is 11:2-3).
Nhưng chúng ta có thể nói việc lặp lại lòng kính úy và sùng mộ không ra khỏi truyền thống Phúc Âm liên quan tới các nhân đức của những khuôn mặt lớn trong Cựu Ước. Theo truyền thống thần học, phụng vụ và giáo lý Kitô Giáo: cách dùng quán từ “lòng mộ mến” thay vì “lòng kính sợ Chúa” song song như trên (Is 11:2-3) diễn tả đầy đủ hơn lời tiên tri và phong phú hóa ý nghĩa chính yếu của lời tiên tri trong phần nói về Đấng Thiên Sai. Tại hội đường Nazareth, Chúa Giêsu áp dụng cho chính Ngài câu nói khác của ngôn sứ Isaiah về Đấng Thiên Sai (tc. Is 61:1): “Thánh Linh (của) Chúa ở trên tôi ...” (Lc 4:8).
Tường thuật trên tương ứng với phần mở đầu lời tiên tri: “Thánh Linh (của) Chúa sẽ ngự trên ngài” (Is 11:2). Thánh Thomas ghi nhận, theo truyền thống, thì các ân sủng Chúa Thánh Linh “được Sách Thánh liệt kê trong sách ngôn sứ Isaiah đều hiện hữu trong Chúa Kitô,” và từ Chúa Kitô mà ra, các ân sủng đó lại được thấy nơi linh hồn người Kitô hữu (tc. Summa Theol., I-II, q. 68, a. 1).
Các Thánh Phụ và thần học gia so sánh những dẫn chiếu Phúc Âm trên đây với các thiên hướng căn bản của linh hồn nhân loại, xem xét trong ánh sáng mức độ siêu nhiên và chính các nhân đức được ban cho linh hồn. Từ đó phát triển thần học thời trung đại về bảy ơn Chúa Thánh Linh, mặc dầu không có tính cách tín điều tuyệt đối và không giới hạn các ơn hoặc phân loại rõ các ân sủng Chúa Thánh Linh ban phát.
Chủ đề thần học này đã từng và vẫn còn rất hữu dụng cho việc hiểu tính cách đa dạng các ân sủng trong Chúa Kitô cùng các thánh, và tạo ra cơ cấu tốt cho đời sống tâm linh. Thánh Thomas (tc. I-II, q. 68, aa. 4, 7), các nhà thần học và giáo lý gia khác đã tìm ra trong chính văn bản Iasiah (Is 11:) này một chỉ dẫn cho việc phân loại các ơn Chúa Thánh Linh trong tương quan với đời sống tinh thần theo cách dẫn giải duy nhất có thể tổng hợp được sau đây:
1) Trước nhất là Chúa Thánh Linh soi sáng trí năng bằng ơn khôn ngoan. Ngài làm cho lý trí biết “những nguyên lý cao siêu nhất” của mạc khải và đời sống tinh thần, cùng hình thành những suy xét chính đáng và đúng liên quan tới đức tin và cách sống Kitô hữu; như một con người “tinh thần (pneumatikòs),” hoặc như con người “xác thịt” (tc. 1 Cor 2:14-15; Rom 7:14).
2) Kế đến, ơn hiểu biết là một sự bén nhạy (sâu sắc) đặc biệt mà Chúa Thánh Linh ban cho con người, tạo ra tri thức trực quan về Lời Thiên Chúa dưới mọi khía cạnh và chiều kích.
3) Ơn tri thức là khả năng siêu nhiên giúp chúng ta thấy và quyết định cách chính xác nội dung mạc khải và phân biệt các điều thuộc về Thiên Chúa trong tri thức con người về vũ trụ.
4) Ơn an ủi là một khả năng siêu nhiên mà Chúa Thánh Linh ban cho con người để điều chỉnh cuộc đời mỗi người thích hợp với những hành động khó khăn phải được chu toàn và những chọn lựa khó khăn phải quyết định, cũng như trong việc quản trị và hướng dẫn người khác.
5) Chúa Thánh Linh ban ơn dũng cảm (kiên cường) để nâng đỡ ý chí và làm cho ý chí bén nhạy, tích cực, và kiên trì khi đối đầu với những khó khăn và cả đau khổ tột cùng nữa. Điều này xảy ra cách đặc biệt nơi các vị tử đạo; tử đạo bằng máu, nhưng cũng tử đạo bằng trái tim và tử đạo vì bệnh tật, yếu đuối và tật nguyền.
6) Chúa Thánh Linh ban ơn hiếu thảo (biết ơn, mộ mến) hướng dẫn trái tim chúng ta hướng về Thiên Chúa với những cảm giác, lòng trìu mến, tư tưởng và những lời cầu nguyện mô tả tình con cái, là chúng ta, đối với Chúa Cha mà Chúa Kitô mạc khải. Ơn hiếu thảo làm cho chúng ta thấm nhuần và thấu triệt mầu nhiệm “Thiên Chúa ở với chúng ta,” đặc biệt là trong việc ngôi hiệp trong Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong tâm tình con thảo đối với Đức Trinh Nữ Maria, kết hiệp với các thiên thần và các thánh trên thiên đàng, trong hiệp thông với Giáo Hội.
7) Chúa Thánh Linh đặt ơn kính úy (kính sợ) vào linh hồn người Kitô hữu. Nhờ đó người tín hữu tôn kính sâu xa các thánh luật của Thiên Chúa và luật buộc đối với cuộc sống Kitô hữu. Ơn kính úy giải thoát linh hồn khỏi những cám dỗ của “lòng sợ hãi có tính cách nô lệ,” trái lại làm phong phú hóa lòng kính úy bằng một “lòng kính úy hiếu thảo” mài giũa trong yêu thương. Giáo lý này về các ơn Chúa Thánh Linh luôn luôn là một giáo huấn rất hữu ích đối với đời sống tâm linh.
Giáo lý này giúp chúng ta tìm thấy đường hướng cho chính mình và hướng dẫn người khác mà chúng ta có trách nhiệm đào luyện, trong một đối thoại không gián đoạn với Chúa Thánh Linh, trong đức từ bỏ (quên mình) và ký thác sống động nơi sự hướng dẫn của Ngài.
Tín lý này nối kết với và luôn nhắc lại lời tiên tri về Đấng Thiên Sai trong sách ngôn sứ Isaiah. Khi áp dụng cho Chúa Giêsu, lời ngôn sứ nói về sự cao cả toàn thiện của Ngài. Khi áp dụng cho linh hồn Kitô hữu, lời tiên tri đó dạy chúng ta biết những thời điểm căn bản trong năng động tính thuộc đời sống nội tâm: để hiểu biết (sự khôn ngoan, tri thức, và thông hiểu); để quyết định (ơn an ủi, cố vấn, và dũng cảm); để duy trì và phát triển trong mối liên hệ cá nhân với Thiên Chúa, trong đời sống cầu nguyện và đời sống ngay chính theo Phúc Âm (lòng yêu mến và kính sợ Chúa).
Vì thế điều quan trọng căn bản là liên kết với Thánh Linh, Ngài là Ân Sủng hằng hữu cần phải được nhận biết nhờ mạc khải trong Cựu Ước và Tân Ước. Chúa Thánh Linh là Tình Yêu duy nhất và vĩnh cửu được ban cho chúng ta cùng với muôn vàn cách hiển lộ và ân sủng đa dạng, thuận hợp với toàn bộ chương trình về tạo dựng.
Buổi gặp chung ngày 3 tháng Tư, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
72. Thánh Linh là Nguồn Sống Nội Tâm
Trong bài giáo huấn trước, Thánh Phaolô nói với chúng ta về “luật Thần Khí (Thánh Linh) sự sống trong Chúa Giêsu Kitô” (Rom 8:2). Nếu chúng ta muốn “đi theo Thánh Linh” (Gal 5:25), hoàn thành những thể cách của Thánh Linh chứ không phải những “hành động của xác thịt”, thì chúng ta cần phải “sống theo Thần Khí”.
Thánh Phaolô tô đậm sự đối nghịch giữa “xác thịt” và “Thánh Linh (Thần Khí),” và giữa hai loại việc làm, tư tưởng và đời sống mà do đó đem lại: “Vì những người sống theo xác thịt, thì ràng buộc với những thứ thuộc xác thịt, trái lại những người sống theo Thánh Linh, thì quan tâm đến những điều thuộc về Thánh Linh. Hậu quả của xác thịt là sự chết, trái lại hậu quả của Thánh Linh là sự sống và bình an” (Rom 8:5-6).
Thật là đau buồn khi thấy “các việc làm của xác thịt” và những hoàn cảnh tinh thần và văn hóa suy đồi mà thú vật thuyết (homo animalis) đem lại. Nhưng điều này không nên làm cho chúng ta quên thực tại khác của đời sống “theo Thánh Linh,” Đấng cũng hiện diện trong thế giới và chống lại sự lan tràn các sức mạnh của ma quỉ. Thánh Phaolô nói về điều này trong Thư viết cho giáo đoàn tại Galat chống lại “các việc làm của xác thịt,” những việc đẩy người ta ra khỏi “nước Thiên Chúa.”
Ngài nhấn mạnh “hoa trái của Thánh Linh” là “yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, khoan dung nhân từ, đại lượng, trung thành, tế nhị và tự chế” (tc. 5:19-22). Theo Thánh Phaolô, những điều này gợi ý các tín hữu từ nội tâm, từ “luật Thánh Linh” (Rom 8:2), và luật đó ở trong chính ngài (Thánh Phaolô), đã hướng dẫn cuộc sống nội tâm của ngài (tc. Gal 5:18,25).
Nguyên lý đời sống tâm linh và tác phong người Kitô hữu là vấn đề cần phải thảo luận vì vấn đề đó thuộc về nội tâm và đồng thời siêu việt, như có thể được suy luận từ những lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thánh Linh chân lý, (mà) thế gian không thể (chấp) nhận Ngài, vì thế gian không thấy Ngài cũng chẳng biết Ngài ... vì Ngài ở trong anh em” (Jn 14:17).
Chúa Thánh Linh từ trời cao ngự xuống, nhưng thấm vào và ở trong chúng ta để làm sinh động đời sống tâm linh của chúng ta. Chúa Giêsu nói: “Thánh Linh ở trong anh em”(Jn 14:17). Lời này cho thấy sự hiện diện không phải chỉ gần gũi, nhưng nhấn mạnh Chúa Thánh Linh ở trong chính chúng ta.
Thánh Phaolô cầu nguyện xin Chúa Cha cho tín hữu tại Ephesus “được củng cố mạnh mẽ nhờ sức mạnh Thánh Linh của Ngài” (Eph 3:16). Vì đối với chúng ta, điều đáng kể không phải là cuộc sống bên ngoài, thường là hời hợt nông cạn, nhưng là ý nguyện sống theo “sâu thẳm của Thiên Chúa,” mà Chúa Thánh Linh thấu suốt mọi sự (1 Cor 2:10). Thánh Phaolô phân biệt con người “sống theo siêu linh đồng bóng (psychic)” và con người “sống theo thần khí (spiritual) ” (tc. 1 Cor 2:13-14).
Việc phân biệt này giúp chúng ta hiểu sự khác biệt và khoảng cách giữa việc trưởng thành tự nhiên của các khả năng linh hồn và sự trưởng thành chính đáng theo Kitô hữu (mà sự trưởng thành này) tạo ra việc phát triển sự sống theo Thánh Linh, trưởng thành trong đức tin, trông cậy và yêu mến.
Tri thức về Nguồn Sống thần linh trong địa hạt tâm linh từ linh hồn tỏa rộng tới mọi lãnh vực của cuộc đời, cả đến những gì bên ngoài và xã hội, là một khía cạnh căn bản và cao cả của khoa nhân chủng học Kitô Giáo. Căn bản của tri thức là chân lý đức tin mà nhờ đó tin Chúa Thánh Linh ngự trong tôi (tc. 1 Cor 3:16), cầu nguyện trong tôi (tc. Rom 8:26; Gal 4:6), hướng dẫn tôi (tc. Rom 8:14), và làm cho Chúa Kitô sống trong tôi (tc. Gal 2:20). Cả đến lời dạy theo ẩn dụ (tỉ dung) Chúa Giêsu dùng khi nói chuyện với người phụ nữ Samaria tại giếng Jacob về nước hằng sống mà Ngài sẽ ban cho những ai tin Ngài, thứ nước “sẽ trở nên dòng suối dâng trào lên tới sự sống đời đời” (Jn 4:14), cũng có nghĩa là dòng suối nội tâm của cuộc sống theo Thánh Linh.
Chính Chúa Giêsu minh xác điều này vào dịp “lễ Nhà Tạm” (tc. Jn 7:2), khi Ngài đứng dậy và thốt lên, “Người nào khát hãy đến với Tôi mà uống. Bất cứ người nào tin vào Tôi, như lời Sách Thánh nói (tc. Is 55:1); những dòng nước hằng sống sẽ chảy tràn trong người đó.’” Thánh sử Gioan bình luận, “Ngài nói điều này dẫn chiếu về Thánh Linh mà những người nào tin vào Ngài sẽ nhận được” (Jn 7:37-39). Nơi người tín hữu, Chúa Thánh Linh phát triển sức năng động do ân sủng, đem lại sự sống mới và tính năng động của các nhân đức, chuyển hóa sức sống động này thành hoa trái sự tốt lành.
Trong “tâm hồn” người tín hữu, Chúa Thánh Linh cũng hoạt động tựa như một ngọn lửa, theo một cách nói so sánh khác, mà Thánh Gioan Tẩy giả dùng liên quan tới Phép Rửa: “Ngài sẽ rửa anh chị em bằng Chúa Thánh Linh và lửa” (Mt 3:11).
Chính Chúa Giêsu cũng dùng ẩn dụ (tỉ dung) này khi nói về sứ mệnh thiên sai của Ngài: “Thầy đến để châm lửa đốt thế gian” (Lc 12:49). Vì thế, Thánh Linh làm dấy lên một cuộc sống với mức độ nhiệt thành mà Thánh Phaolô khuyến cáo trong Thư gửi tín hữu Roma: “(Anh chị em) hãy nhiệt thành trong Thánh Linh” (12:11).
“Ngọn lửa yêu mến hằng cháy (sống động)” này thanh tẩy, soi sáng, đốt cháy và làm tiêu đi, như Thánh Gioan Thánh Giá giải thích. Nhờ Chúa Thánh Linh hoạt động trong người tín hữu, tình trạng thánh thiện căn bản có thể nảy nở mạnh để nhìn nhận, nâng lên và đem nhân cách của mỗi người tới toàn hảo mà không hủy hoại nhân cách người đó. Như thế, mỗi vị thánh có diện mạo riêng của mình.
Thánh Phaolô nói: “Ngôi sao này khác ngôi sao kia về độ sáng” (1 Cor 15:41), không phải chỉ khi “phục sinh trong tương lai” mà cả trong cuộc sống hiện tại, người ta không còn chỉ là thuần túy thể chất tự nhiên, nhưng cũng là thần linh nữa (tc. 1 Cor 15:44 ff).
Yếu tố của sự thánh thiện nồng cốt là tình yêu toàn thiện. Tuy nhiên, sự thánh thiện theo những khía cạnh khác nhau mà tình yêu nhìn nhận theo những hoàn cảnh cuộc sống cá nhân. Nhờ Chúa Thánh Linh, mỗi người thắng vượt bản năng ích kỷ bằng tình yêu, và đạt tới những giá trị cao nhất theo đường lối xả kỷ căn bản của mình. Khi sức phát triển tính chất độc đáo này ở một người tới độ mãnh liệt, thì Chúa Thánh Linh kết hợp những nhóm môn đệ và tín hữu chung quanh (những) người thánh thiện đó (dù cho đôi khi những người này không xuất diện).
Theo cách này, những dòng nước sự sống thiêng liêng, những trường phái tu đức và dòng tu ra đời, mà tính cách đa dạng của họ là hiệu quả việc Thánh Linh can thiệp. Chúa Thánh Linh dùng tất cả mọi khả năng nơi cá nhân và tập đoàn, nơi cộng đồng và tổ chức, giữa linh mục và giáo dân. Giá trị mới của tự do là đặc điểm đời sống Kitô Giáo phát xuất từ nguồn gốc nội tâm này. Thánh Phaolô nói: “Nơi nào Thánh Linh của Chúa ngự, nơi đó có tự do” (2 Cor 3:17).
Thánh Tông Đồ nhắc trực tiếp đến sự tự do mà những người theo Chúa Kitô thủ đắc đối với luật Do Thái giáo, hòa hợp với giáo huấn và thái độ của chính Chúa Giêsu. Nhưng nguyên lý mà Thánh Phaolô nói trên đây có giá trị tổng quát. Ngài thường nói về sự tự do như là ơn gọi của Kitô hữu: “Anh chị em được kêu gọi đến với tự do” (Gal 5:13).
Theo Thánh Phaolô, bất cứ người nào “sống theo Thánh Linh” (Gal 5:16) thì sống trong tự do, vì người ấy không còn bị khống chế bởi ách nặng xác thịt; “Anh chị em hãy sống theo Thánh Linh và chắc chắn anh chị em sẽ không chiều theo xác thịt” (Gal 5:16). “Hướng đi của xác thịt là sự chết, nhưng hướng đi của Thánh Linh là sự sống và bình an” (Rom 8:6). Người Kitô hữu trung thành với Thánh Linh được giải thoát khỏi “tác dụng của xác thịt,” những việc làm của lòng ích kỷ và đam mê, những việc này cản lối vào nước Thiên Chúa. Công việc của Thánh Linh là những việc làm của tình yêu. “Không có luật lệ nào chống lại được những việc làm của Thánh Linh” (Gal 5:23).
Theo Thánh Tông Đồ (Phaolô), kết quả việc theo tự do của Chúa Thánh Linh là “nếu anh chị em được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, anh chị em không còn lệ thuộc lề luật (của xác thịt)” (Gal 5:18). Khi viết cho ông Timothy, ngài không ngần ngại nói: “Lề luật không phải chủ ý dành cho người công chính” (1 Tim 1:9). Và thánh Thomas giải thích: Lề luật không có sức mạnh ép buộc nơi người công chính, như đối với người xấu (Summa Theol., I-II, q. 96, a. 5, và 1), vì người công chính không làm điều gì trái với lề luật. Trái lại, vì được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, người công chính tự do làm mọi điều mà lề luật truyền (tc. Rom 8:4; Gal 5:13-16).
Hoa trái của công việc Chúa Thánh Linh nơi người công chính là sự hài hòa tuyệt vời giữa tự do và lề luật. Ngôn sứ Jeremiah và Ezekiel tiên tri điều này, loan báo việc nội tâm hóa lề luật của giao ước mới (tc. Jer 31:31-34; Ez 36:26-27). Lời tiên tri “Ta sẽ đặt Thánh Linh của Ta trong các ngươi” (Ez 36:27) đã được thực hiện và tiếp tục hoạt động giữa các tín hữu và trong cộng đồng Giáo Hội.
Chính Chúa Thánh Linh làm cho người tín hữu không phải chỉ là người tuân thủ lề luật, nhưng là người tự do, nhiệt thành và trung tín chu toàn chương trình của Thiên Chúa. Người tín hữu chu toàn mọi điều mà Thánh Phaolô nói: “Những người được Thánh Linh Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa. Anh chị em đã không lãnh nhận thần khí khiến anh chị em sợ sệt, nhưng anh chị em đã nhận lãnh thần khí làm cho anh chị em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên, ‘Abba, Cha ơi!’” (Rom 8:14-15). Sự tự do của con cái mà Chúa Giêsu loan báo chính là sự tự do đích thực (tc. Jn 8:36).
Tự do theo Luật Thánh Linh là sự tự do căn bản trong tâm hồn. Chúng ta luôn luôn được dẫn hướng về tình yêu để chúng ta nhờ một Thánh Linh duy nhất mà đến với Chúa Cha (tc. Eph 2:18). Đó là sự tự do được hướng dẫn và rực sáng trong cuộc đời các thánh.
Buổi gặp chung ngày 10 tháng Tư, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
73. Chúa Thánh Linh là Nguồn Sống Cầu Nguyện
Hình thức thứ nhất và tuyệt diệu nhất của đời sống nội tâm là cầu nguyện. Các bậc sư phụ về đời sống tâm linh đều tin chắc điều này đến độ các ngài thường trình bày đời sống nội tâm là đời sống cầu nguyện. Đấng khởi nguyên đời sống cầu nguyện là Chúa Thánh Linh, như Ngài đã kiến tạo đời sống cầu nguyện trong Chúa Kitô. Thực vậy, chúng ta đọc trong Phúc Âm Thánh Luca: “Ngay lúc đó Chúa Giêsu vui mừng trong Chúa Thánh Linh và nói: ‘Lạy Cha, Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất” (Lc 10:21).
Theo thánh sử, đây là lời cầu nguyện chúc tụng và tạ ân trào dâng từ sự hoan hỉ của Chúa Giêsu “trong Chúa Thánh Linh.” Chúng ta biết trong thời gian hoạt động thiên sai, Chúa Giêsu thường lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, và nhiều lần Chúa cầu nguyện suốt đêm (tc. Lc 6:12).
Về việc cầu nguyện, thánh sử nói đến những nơi vắng vẻ giúp người ta đàm thoại với Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và khuynh hướng tinh thần bén nhạy đối với mầu nhiệm thần linh siêu việt (tc. Mk 1:35; Lc 5:16). Cựu Ước cho biết ông Moses và ngôn sứ Elijah đã hành động cách tương tự (tc. Xh 34:28; 1 Vua 19:8). Sách ngôn sứ Hosea giúp chúng ta thấy những nơi vắng vẻ có nguồn cảm hứng đặc biệt giúp cho việc cầu nguyện. Thiên Chúa “hướng dẫn (chúng ta) vào nơi thanh vắng và nói với tâm hồn (chúng ta)” (tc. Hos 2:16).
Trong đời chúng ta, cũng như trong cuộc đời Chúa Giêsu, Chúa Thánh Linh được mạc khải là Thần Khí cầu nguyện. Thánh Tông Đồ Phaolô cho biết điều này cách hùng hồn trong một đoạn Thư gửi giáo đoàn tại Galat mà chúng ta đã trích dẫn và nhắc lại ở đây: “Để làm bằng chứng anh chị em là con cái, Thiên Chúa đã phái Thánh Linh của Con của Ngài vào lòng chúng ta, kêu lên, ‘Abba, Cha ơi!’” (Gal 4:6). Cùng một cách như thế, Chúa Thánh Linh chuyển vào lòng chúng ta lời cầu nguyện của Chúa Con, Đấng thốt lên “Abba, Cha ơi!”.
Cũng vậy, lời cầu nguyện của chúng ta chứng minh rằng: trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô chúng ta được “nhìn nhận là con cái” Thiên Chúa (tc. Rom 8:15). Cầu nguyện là tuyên xưng lòng tin vào chân lý “chúng ta là con cái” và “là người thừa hưởng gia nghiệp Thiên Chúa,” “là đồng thừa kế với Chúa Kitô.” Cầu nguyện cho phép chúng ta sống thực tại siêu nhiên này nhờ hành động của Chúa Thánh Linh Đấng “làm chứng cho thần trí chúng ta” (tc. Rom 8:16-17).
Từ khởi đầu Giáo Hội, những người theo Chúa Kitô đã sống trong cùng đức tin này, đức tin này cũng được biểu lộ vào lúc lâm chung. Chúng ta quen với lời cầu nguyện của Thánh Stephen, vị tử đạo đầu tiên, một người “được tràn đầy Chúa Thánh Linh.” Lúc bị ném đá, Thánh Stephen đã chứng minh việc kết hiệp đặc biệt với Chúa Kitô và theo gương Thầy của ngài khi chịu đóng đinh, đã thốt lên cầu xin cho những người hành quyết ngài: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này!” Rồi kế đến, trong khi vẫn còn cầu nguyện, ngài chăm chú chiêm ngắm Chúa Kitô vinh quang đang đứng “bên hữu Thiên Chúa” và lớn tiếng kêu: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận linh hồn con” (tc. Cv 7:55-60).
Lời cầu nguyện này là hoa trái hành động của Chúa Thánh Linh trong trái tim vị tử đạo (Stephen). Chúng ta còn tìm thấy cũng linh ứng nội tâm về cầu nguyện trong hành động của các vị tử đạo khác, những người đã tuyên xưng Chúa Kitô. Những trang sử này diễn tả tâm tưởng Kitô Giáo hình thành trong các Sách Phúc Âm, Thánh Thư và đã trở nên lương tâm của Giáo Hội. Theo giáo huấn của Thánh Phaolô, Chúa Thánh Linh chính là Đấng khởi nguyên lời cầu nguyện của Kitô hữu, trên hơn hết là vì Ngài thúc đẩy chúng ta cầu nguyện. Chính Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta, cách đặc biệt vào lúc bị cám dỗ, những nhu cầu và khát vọng vâng theo “việc cảnh giác và cầu nguyện” mà Chúa Kitô khuyến cáo, vì “tinh thần thì mau mắn, nhưng xác thịt thì nặng nề yếu hèn” (Mt 26:41).
Âm vọng của lời khuyến khích hô hào này dường như vang lên trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus: “Nhờ Thánh Linh, trong mọi lúc, anh chị em hãy dùng mọi lời kinh và tiếng van nài mà cầu nguyện. Muốn được như vậy, anh chị em hãy tỉnh thức và chuyên cần ... để lời nói khiến tôi mở miệng, để tôi mạnh dạn rao truyền mầu nhiệm Phúc Âm” (Eph 6:18-19).
Thánh Phaolô ý thức ngài ở trong hoàn cảnh những người cần phải cầu nguyện để chống lại cám dỗ, để khỏi là nạn nhân sự yếu hèn của con người, và đủ can đảm chấp nhận sứ mệnh được kêu gọi thi hành. Ngài luôn nhớ và đôi khi ý thức cách mạnh mẽ trách nhiệm được ký thác là làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm trong thế giới, đặc biệt là giữa những người ngoại giáo. Và ngài biết điều ngài được kêu gọi thi hành và rao giảng cũng chính là công việc của Thánh Linh chân lý, Đấng mà Chúa Giêsu đã nói: “Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:14).
Chúa Thánh Linh dùng “những điều của Chúa Kitô” để “tôn vinh Ngài (Chúa Kitô)” qua sứ điệp truyền giáo. Vì thế chỉ có cách vào trong vòng liên hệ của Chúa Kitô với Thánh Linh của Ngài, trong mầu nhiệm hiệp nhất với Chúa Cha, chúng ta mới có thể chu toàn sứ mệnh tương tự. Con đường để vào vòng hiệp thông này là cầu nguyện mà Thánh Linh khơi động trong chúng ta. Bằng những lời thấm thía đặc biệt, Thánh Tông Đồ (Phaolô) trong Thư gửi tín hữu Roma cho thấy: “Thánh Linh đến để giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu đuối; vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Linh cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng thở dài khôn tả” (Rom 8:26).
Thánh Phaolô nghe những tiếng thở dài tương tự dâng lên từ những thẳm sâu của muôn loài thụ tạo, những người “hằng ngóng chờ ngày mạc khải vinh quang của con cái Thiên Chúa” (trong niềm) hy vọng “được giải thoát khỏi ách nô lệ vào cảnh hư nát, cho đến bây giờ muôn loài còn rên siết quằn quại như khi sinh con” (Rom 8:19, 21-22). Trái với hậu cảnh lịch sử và tinh thần này, Chúa Thánh Linh hoạt động: “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Linh muốn nói gì, vì Ngài cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rom 8:27).
Chúng ta ở tại chính nguồn cầu nguyện thẳm sâu nhất là Chúa Thánh Linh. Thánh Phaolô giải thích và giúp chúng ta hiểu Chúa Thánh Linh không phải chỉ thúc giục chúng ta cầu nguyện, mà chính Chúa Thánh Linh cầu nguyện trong chúng ta! Chúa Thánh Linh là nguồn gốc lời cầu nguyện phản ánh tối đa mối liên hệ hiện hữu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: lời cầu nguyện để tôn vinh cùng tạ ân Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh.
Lời cầu nguyện này ở nơi môi miệng các tông đồ vào ngày Lễ Hiện Xuống, khi các ngài loan báo “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2:11). Cũng những sự việc đó xảy ra trong trường hợp của viên bách quân Cornelius: khi ông và người nhà đang nghe Thánh Phêrô nói, thì những người hiện diện nhận được “ơn Chúa Thánh Linh” và “tôn vinh Thiên Chúa” (tc. Cv 10:45-47).
Trong Thư cho giáo đoàn tại Colossae, Thánh Phaolô nhắc lại kinh nghiệm sống Kitô hữu đầu tiên này, vốn đã trở nên sản nghiệp chung của Giáo Hội sơ khai. Sau khi cầu chúc “lời Chúa Kitô ngự dồi dào trong anh chị em” (Col 3:16), ngài khuyến khích các Kitô hữu trung thành với việc cầu nguyện, “hát dâng lên Thiên Chúa lời tạ ân từ trái tim anh chị em,” dạy và khuyến khích nhau bằng “những lời thánh vịnh, thánh thi và thánh ca.”
Và ngài yêu cầu các tín hữu chuyển cách sống (trong) cầu nguyện này thành bất cứ điều gì họ nói hoặc làm: “Anh chị em hãy làm mọi việc nhân danh Chúa Giêsu, nhờ Ngài mà tạ ân Thiên Chúa Cha” (Col 3:17). Trong Thư gửi giáo đoàn tại Ephesus cũng có lời khuyến cáo tương tự: “Anh chị em hãy thấm nhuần thần khí, đối đáp với nhau những thánh vịnh và thánh thi ... hát và đàn ca dâng lên Chúa trong tâm hồn anh chị em, trong mọi hoàn cảnh và mọi sự anh chị em cần luôn luôn nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà tạ ân Thiên Chúa Cha” (Eph 5:18-20).
Kinh nghiệm sống trong cầu nguyện này đưa chúng ta trở lại với chiều kích Tam Vị trong lời cầu nguyện của Kitô hữu theo giáo huấn và lời cổ võ của Thánh Phaolô. Theo Thánh Tông Đồ, chúng ta cũng thấy chính Chúa Thánh Linh khuyến khích chúng ta thể thức cầu nguyện này và hình thành điều đó trong tim chúng ta. “Đời sống cầu nguyện” của các thánh, các nhà thần nghiệm, các trường phái tu đức phát triển suốt các thế kỷ Kitô Giáo phù hợp với đời sống các cộng đồng tiên khởi.
Phụng vụ của Giáo Hội được duy trì theo cùng một hệ thống này, chẳng hạn trong Vinh Tụng Ca (Gloria) chúng ta dâng lên: “Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả của Chúa”; cũng tương tự như trong thánh thi tán tụng Lạy Chúa (Te Deum), chúng ta chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Ngài là Chúa. Trong các kinh tiền tụng, luôn luôn có lời mời gọi: “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta,” và các tín hữu được mời đáp ưng thuận và tham dự: “Thật là chính đáng.” Đẹp biết bao việc lặp lại cùng với Giáo Hội lời cầu nguyện, vào lúc cuối mỗi thánh vịnh và nhiều dịp khác, vinh tụng ca ngắn, súc tích và huy hoàng của kinh “Sáng Danh (Gloria Patri)”: ‘Sáng danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần ...” Việc chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi thể hiện chính yếu trong lòng chúng ta, nhờ Chúa Thánh Linh cầu nguyện trong chúng ta.
Nhưng việc chúc tụng tôn vinh đó cũng được chuyển dịch thành lời chúc tụng từ nhu cầu biểu lộ của con người và cộng đồng kết hợp cử hành chúc tụng những kỳ công của Thiên Chúa.
Linh hồn yêu mến Thiên Chúa tự mình diễn tả tình yêu thành lời và dễ dàng thành ca khúc, như đã luôn xảy ra trong Giáo Hội từ những cộng đồng Kitô hữu đầu tiên. Thánh Augustine cho chúng ta biết “Thánh Ambrose đưa ca hát vào Giáo Hội tại Milan” (tc. Confessions, 9, c. 7: PL 32, 770).
Thánh Augustine nhớ ngài xúc động cách sâu xa và đã khóc khi nghe “những thánh thi và những bài ca dịu dàng vang lên trong thánh đường Thánh Ambrose trông coi”(tc. Confessions, 9, c. 6: PL 769). Ngay cả âm thanh cũng có thể giúp dâng lời chúc tụng Thiên Chúa, khi những nhạc khí dùng để “nâng cảm nghĩ của người ta lên cao” (St. Thomas Aquinas, Expositio in Psalmos, 32, 2).
Điều này giải thích giá trị lời ca hát và âm nhạc trong phụng vụ của Giáo Hội, vì “ca nhạc, với những giai điệu khác nhau, giúp đánh động tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa ...” (Summa Theol., II-II, q. 92, a. 2; tc. St. Augustine, Confessions, 10, c. 22: PL 32, 800). Nếu những qui tắc phụng vụ được tuân theo, ngày nay chúng ta cũng có thể cảm nghiệm điều thánh Augustine nhắc lại ở một đoạn khác trong tác phẩm Thống hối (Confessions) của ngài (9, c. 4, n. 9): “Lạy Thiên Chúa của con, những lời ca con dâng lên Chúa, những thánh vịnh David, những bài thánh ca tin yêu, ca nhạc của lòng yêu mến ... Những lời ca con muốn dâng lên Chúa khi đọc thánh vịnh! Lòng con bừng cháy lửa yêu mến Chúa với lòng khao khát đọc những lời ca tụng đó trước mặt toàn thế giới, nếu con có thể ...” Tất cả mọi điều này xảy ra khi những linh hồn cá nhân hoặc cộng đồng theo đuổi hoạt động thân mật thâm sâu của Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 17 tháng Tư, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
74. Chúa Thánh Linh Là Ánh Sáng Linh Hồn
Đời sống tâm linh cần được soi sáng và hướng dẫn. Vì lý do này, khi thiết lập Giáo Hội và phái các tông đồ đi rao giảng khắp thế giới, Chúa Giêsu trao cho các ngài trách nhiệm giảng dạy muôn dân (tc. Mc 28:19-20), và “rao truyền Phúc Âm cho mọi người,” như chúng ta thấy ở văn bản về giáo luật trong Phúc Âm Thánh Marcô (tc Mc16:15). Thánh Phaolô cũng nói về sứ mệnh tông đồ là “thức tỉnh mọi người” (Eph 3:9).
Nhưng nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm và giảng dạy của Giáo Hội thuộc về thừa tác vụ của các tông đồ cùng những người kế vị các ngài, nói một cách khác, thuộc về tất cả mọi thành viên Giáo Hội. Qua nhiều thời đại, sứ vụ này là tiếp tục công việc của Chúa Kitô, “Vị Thầy duy nhất” (Mt 23:8), Đấng đã đem đến cho nhân loại sự sung mãn về mạc khải Thiên Chúa. Tuy nhiên vẫn cần một vị giáo sư có khả năng làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu thấu suốt trái tim và tinh thần nhân loại. Vị giáo sư này là Chúa Thánh Linh, Đấng mà chính Chúa Giêsu gọi là “Thánh Linh chân lý,” và Chúa Giêsu hứa Chúa
Thánh Linh là Đấng sẽ hướng dẫn mọi người tới chân lý hoàn toàn (tc. Jn 14:17; 16:13). Nếu Chúa Giêsu đã tự minh xác: “Thầy là sự thật” (tc. Jn 14:6), Chúa Thánh Linh làm cho hiển lộ và truyền bá chân lý này về Chúa Giêsu: “Ngài sẽ không tự mình nói, nhưng Ngài sẽ nói những gì Ngài nghe ... Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà nói cho anh em” (Jn 16:13-14).
Chúa Thánh Linh là ánh sáng soi tâm hồn: Lumen cordium, như chúng ta xưng tụng Ngài trong luân ca Lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Linh là ánh sáng và là vị giáo sư vô hình đối với các tông đồ, những người phải biết Chúa Kitô cách sâu sắc để có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng tin mừng. Chúa Thánh Linh đã là và luôn luôn như thế đối với Giáo Hội và các tín hữu thuộc mọi thế hệ, đặc biệt đối với các nhà thần học và các vị linh hướng, những người dạy giáo lý và những người có trách nhiệm về các cộng đồng Kitô hữu.
Chúa Thánh Linh đã là và luôn luôn như vậy đối với tất cả mọi lãnh vực trong và ngoài Giáo Hội. Chúa Thánh Linh là ánh sáng và là thầy dạy những người muốn đi theo đường lối Thiên Chúa với tấm lòng chân thành và, không vì lỗi riêng của họ mà, không tìm được người có thể giúp họ giải quyết điều bí ẩn của cuộc đời và tìm thấy chân lý mạc khải. Xin Chúa ban cho tất cả mọi anh chị em chúng ta, hàng triệu, hàng tỉ người, ơn chấp nhận và tuân theo Chúa Thánh Linh trong những hoàn cảnh có thể là những giây phút quyết định về cuộc đời họ.
Đối với Kitô hữu chúng ta, giáo huấn âm thầm của Chúa Thánh Linh là một niềm xác tín vui mừng. Niềm xác tín này được xây dựng trên lời Chúa Kitô về việc “Đấng An Ủi khác” đến, Đấng mà Chúa Kitô nói “Chúa Cha sẽ gởi đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy anh em mọi điều và nhắc anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:26).
“Ngài sẽ dẫn anh em tới toàn chân lý” (Jn 16:13). Từ văn bản trên đây, chúng ta có thể kết luận Chúa Giêsu không phải chỉ ký thác lời của Ngài cho ký ức của người nghe. Ký ức này phải được Chúa Thánh Linh trợ giúp. Ngài luôn luôn giúp các tông đồ hồi tưởng các biến cố và ý nghĩa mầu nhiệm Phúc Âm. Chúa Thánh Linh hướng dẫn các tông đồ chuyển trao lời giảng dạy và cuộc đời Chúa Giêsu. Trong bài giáo lý về Chúa Thánh Linh và mạc khải, chúng ta đã thấy Chúa Thánh Linh hướng dẫn việc các tông đồ rao giảng bằng lời nói và thư văn, cũng như việc viết các Sách Phúc Âm.
Chúa Thánh Linh cũng giúp người đọc Sách Thánh hiểu ý nghĩa thần linh trong bài viết, mà Chúa Thánh Linh hướng dẫn và là tác giả chính. Chỉ một mình Chúa Thánh Linh có thể làm cho chúng ta biết “những điều sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:10) tích lũy trong Sách Thánh. Chúa Thánh Linh được gởi đến để chỉ dạy các môn đệ về những giáo huấn của Thầy các ngài (tc. Jn 16:13).
Các tông đồ là những người đầu tiên rao truyền lời Chúa Kitô và nói về việc giáo huấn âm thầm của Chúa Thánh Linh. Thánh Gioan viết: “Nhưng anh chị em nhận được dầu (xức) từ Đấng Thánh, và tất cả anh chị em đều được ơn hiểu biết. Tôi viết cho anh chị em không phải vì anh chị em không biết chân lý nhưng vì anh chị em biết chân lý, mà sự dối trá (thì) đối nghịch với sự thật” (1 Jn 2:20-21). Theo các Giáo Phụ và đa số nhà chú giải Thánh Kinh hiện thời, “dầu (xức) (chrisma)” này có nghĩa là Chúa Thánh Linh.
Thánh Gioan còn nói những người sống theo Thánh Linh không cần thầy dạy nào khác: “Vì đối với anh em, dầu xức (mà) anh em nhận lãnh từ Ngài vẫn ở lại trong anh em, vì thế anh em không cần người nào chỉ dạy anh em nữa. Nhưng vì dầu xức của Ngài dạy anh em mọi sự – mà dầu ấy là sự thật chứ không phải sự dối trá; theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Ngài” (1 Jn 2:27).
Thánh Tông Đồ Phaolô cũng nói sự hiểu biết theo Thánh Linh không phải là hoa trái của sự khôn ngoan loài người, nhưng là ơn trên soi sáng: “Con người sống theo tự nhiên (psychikòs) không đón nhận những gì của Thánh Linh Thiên Chúa, ... họ không biết được, ... Nhưng người sống theo Thánh Linh xét đoán được mọi sự mà chẳng có ai xét đoán được người đó” (1 Cor 2:14-15).
Vì thế, người Kitô hữu nhận được Chúa Thánh Linh, được xức dầu Chúa Kitô, sở hữu nơi chính họ một nguồn mạch hiểu biết chân lý, và Chúa Thánh Linh là vị thầy tối cao soi sáng và hướng dẫn họ. Nếu Kitô hữu vâng phục và trung thành với giáo huấn thần linh của Chúa Thánh Linh, Ngài giữ họ khỏi sai lầm bằng việc ban cho họ chiến thắng trong cuộc tranh đấu triền miên giữa “Thần chân lý” và “thần man trá” (tc. 1 Jn 4:6).
Thần man trá không nhìn nhận Chúa Kitô (tc. 1 Jn 4:3) được phổ biến bởi “các tiên tri giả” mà những người này luôn hiện diện khắp thế giới, ngay cả giữa dân Kitô hữu, với hành động đôi khi rộng rãi và có vẻ tuyệt vời nữa, hoặc đôi khi lừa lọc và qủi quyệt. Giống như Satan, những tiên tri giả đó đôi khi cũng đội lốt “thiên thần ánh sáng” (tc. 2 Cor 11:14) và xuất hiện dưới hình thức đặc sủng tiên tri rõ ràng và linh ứng huyền bí.
Điều đó đã xảy ra trong thời đại các tông đồ. Bởi thế nên, Thánh Gioan cảnh cáo: “Anh chị em đừng tin tất cả mọi thần khí, nhưng hãy cân nhắc (trắc nghiệm) (các thần khí đó) để xem những thần khí đó thuộc về Thiên Chúa hoặc không, vì nhiều tiên tri giả đã lan tràn khắp thế gian” (1 Jn 4:1). Công Đồng Vatican II nhắc lại (tc. LG 12) Chúa Thánh Linh bảo vệ Kitô hữu khỏi sai lầm bằng việc ban khả năng nhận ra điều gì là đích thực và điều gì là giả trá.
Người Kitô hữu luôn luôn cần những tiêu chuẩn chính đáng để nhận thức những điều họ nghe hoặc đọc về các vấn đề tôn giáo, Thánh Kinh, những hiển lộ siêu nhiên, v.v. Những tiêu chuẩn này phù hợp với Phúc Âm, thuận với giáo huấn của Giáo Hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập và sắp đặt để rao giảng chân lý của Ngài, tác phong đạo đức của người nói hoặc viết và những hoa trái của sự thánh thiện là kết quả của điều được trình bày hoặc đề nghị.
Chúa Thánh Linh dạy người Kitô hữu lấy chân lý làm khuôn vàng thước ngọc cho cuộc sống. Ngài dạy cách áp dụng vững chắc những lời Chúa Giêsu vào cuộc sống mỗi người. Ngài giúp con người khám phá ra giá trị hiện đại của Phúc Âm đối với mọi trạng huống của nhân loại. Ngài thích ứng việc hiểu biết chân lý Phúc Âm cho mọi tình huống, ngõ hầu chân lý này không còn chỉ là trừu tượng và suy lý, nhưng giải thoát họ khỏi những nguy hiểm của giả dối, một dạ hai lòng và đạo đức giả. Nhắm mục đích này, Chúa Thánh Linh soi sáng riêng từng người, hướng dẫn hành vi mỗi người, chỉ dẫn cho từng người thấy con đường phải đi và nhận thức lờ mờ về chương trình của Chúa Cha cho cuộc đời mình.
Thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu tại Colossea đặc sủng ánh sáng vĩ đại này: “sự hiểu biết thiêng liêng” có thể giúp người tín hữu hiểu thánh ý Chúa. Thánh Phaolô bảo đảm với các tín hữu tại Colossea như sau: “Chúng tôi không ngừng cầu nguyện cho anh chị em và xin cho anh chị em được tràn đầy ơn hiểu biết thánh ý (Thiên Chúa) nhờ tất cả mọi khôn ngoan và hiểu biết theo thần linh, để sống theo cách xứng đáng, và làm đẹp lòng Ngài về mọi phương diện, hầu sinh hoa trái là mọi việc tốt lành ...” (Col 1:9-10).
Đối với tất cả chúng ta ân sủng này cần thiết để có sự hiểu biết chính đáng thánh ý Thiên Chúa và để có thể sống ơn gọi riêng từng người cách trọn vẹn. Khó khăn thì đầy dẫy và đôi lúc những khó khăn đó hầu như không thể giải quyết được. Nhưng Chúa Thánh Linh ban ánh sáng giúp giải quyết những khó khăn của chúng ta. Ngài có thể cho thấy giải pháp thần linh, như Ngài đã làm trong mầu nhiệm Truyền Tin, thiên sứ loan báo cho Đức Maria biết Thiên Chúa chọn Người cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể, dung hòa chức làm mẹ với ước vọng giữ mình trinh khiết của Người.
Ngay cả trong vấn đề thuộc vai trò duy nhất của Đức Maria trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, có thể nói Chúa Thánh Linh có quyền tạo dựng vô biên, thích hợp với thần trí, biết cách giải quyết những vấn nạn của nhân loại, cho dù nhiêu khê nhất và bí hiểm nhất. Tất cả mọi thứ này được Chúa Thánh Linh ban cho và hoàn tất nơi linh hồn nhờ các hồng ân của Ngài, chúng ta có thể cẩn thận nhận định những ân sủng ấy, không phải theo tiêu chuẩn sự khôn ngoan loài người vì sự khôn ngoan loài người chỉ là điên rồ trước mắt Thiên Chúa, nhưng nhờ sự khôn ngoan thần linh mà con mắt loài người cho là khùng dại (tc. 1 Cor 1:18-25).
Chỉ có Chúa Thánh Linh “thấu suốt mọi sự, ngay cả đến những sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:10-11). Thánh Phaolô nhắc các Kitô hữu nhớ nếu có sự đối nghịch giữa thần khí thế gian và Thần Linh Thiên Chúa thì “Chúng ta đã không nhận thần khí của thế gian, nhưng lãnh nhận Thần Linh phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân sủng Thiên Chúa đã cho không chúng ta” (1 Cor 2:12).
Không như “con người tự nhiên (xác thịt),” “con người tinh thần (pneumatikòs) ” thành thực rộng mở đón Chúa Thánh Linh, tuân phục và trung thành với những ơn soi sáng của Ngài (tc. 1 Cor 2:14-16). Như thế, con người tinh thần thường sở hữu khả năng xét đoán chính xác nhờ ơn khôn ngoan do Thánh Linh hướng dẫn. Luôn luôn gắn bó với chân lý mạc khải như Huấn Quyền của Giáo Hội trình bày là một chỉ dẫn cho thấy sự nhận thức của chúng ta thực sự thần giao với Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh không linh ứng sự bất đồng quan điểm, bất phục tòng hoặc chống đối không chính đáng đối với các mục tử và thầy dạy mà Chúa Thánh Linh thiết lập trong Giáo Hội (tc. Cv 20:29). Quyền huấn giáo thuộc về Giáo Hội, như Công Đồng nói trong Hiến Chế Lumen Gentium (số 12), “không phải để dập tắt Thánh Linh, nhưng để trắc nghiệm và giữ lại những điều thiện hảo” (tc. 1 Thess 5:12; 19-21). Đường hướng khôn ngoan này của Giáo Hội và mục vụ cũng phát xuất từ Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 24 tháng Tư, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
75. Chúa Thánh Linh Là Nguyên Lý Chính Yếu của Đức Tin
Đức tin là ơn căn bản Chúa Thánh Linh ban cho đời sống siêu nhiên. Trong Thư khuyến khích tín hữu bị bách hại tại Israel, Thánh Phaolô nhấn mạnh nhiều vào ân sủng này: “Đức tin là bảo đảm cho những điều chúng ta hy vọng và là bằng chứng vững tin cho những điều chúng ta không nhìn thấy” (Dt 11:1).
Chúng ta có thể coi đoạn Thư gửi tín hữu Israel trên đây là một định nghĩa thần học về đức tin. Theo Thánh Thomas giải thích đoạn này thì đức tin, được mạc khải cho chúng ta, không có những yếu tố thực tại mà trí năng có thể hiểu hoặc giác quan cảm nghiệm được, nhưng là chân lý siêu việt của Thiên Chúa (Veritas Prima) mạc khải cho chúng ta (tc. Summa Theol., II-II, q. 1, a. 4; & a.1).
Để khuyến khích các Kitô hữu Do Thái, Thánh Phaolô nêu ra gương các tín hữu thời Cựu Ước, tóm lược tiểu sử các thánh nhân trong sách Sirach (tc. các chương 44-50), ngài nói tất cả các thánh nhân đó hướng về Đấng Vô Hình vì các ngài được lòng tin nâng đỡ. Thánh Phaolô kể ra mười bảy trường hợp điển hình: “Nhờ lòng tin của ông Abel ... nhờ lòng tin của ông Noe ... nhờ lòng tin của ông Abraham ... nhờ lòng tin của ông Moses ...”
Và chúng ta có thể thêm: do lòng tin của Đức Maria ... do lòng tin của Thánh Dưỡng Phụ Giuse ... do lòng tin của ngôn sứ Simeon và Anna ... do lòng tin của các tông đồ, các thánh tử đạo, các thánh (không tử đạo), các thánh trinh nữ và các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân thuộc các thế kỷ Kitô Giáo ... Nhờ đức tin Giáo Hội đã trải qua các thế kỷ và ngày nay hướng về Đấng Vô Hình, dưới hơi thở và hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Công hiệu siêu nhiên của đức tin có thể mang hình thức một thần ân (đặc sủng) dành riêng cho một số người (tc. 1 Cor 12:9).
Nhưng trong chính đức tin, đặc sủng đức tin là một thánh đức mà Chúa Thánh Linh ban cho mọi người. Vì thế theo đúng nghĩa chính xác của từ ngữ, đặc sủng đức tin không phải chỉ là một đặc ân, một trong những ơn đặc biệt Chúa Thánh Linh “ban cho mỗi người theo ý Ngài” (1 Cor 12:11; tc. Rom 12:6), mà đức tin là một trong những ơn thiêng liêng cần thiết cho mọi Kitô hữu, trong đó đức bác ái là ơn quan trọng nhất: “Vì thế đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng vĩ đại (cao trọng) nhất là đức mến” (1 Cor 13:13).
Theo giáo huấn của Thánh Phaolô, đức tin hoàn toàn chắc chắn là một thánh đức, nhưng quan trọng nhất đức tin là một hồng ân: “Vì ... được ban cho anh chị em ... để tin vào Chúa Kitô” (Phil 1:29). Chúa Thánh Linh ban ơn đức tin cho linh hồn (tc. 1 Cor 12:3). Hồng ân đức tin là một thánh đức vì hồng ân này là một đặc sủng “thiêng liêng,” một ân sủng của Chúa Thánh Linh, Đấng làm cho người ta tin.
Ơn đức tin là một ân sủng từ nguyên thủy, theo Công Đồng Orange (529) định nghĩa: “Thực ra, ngay từ lúc khởi đầu đức tin, chính khuynh hướng tin tưởng ... hiện diện trong chúng ta là kết quả của một đặc ân, tức là do ơn linh ứng của Chúa Thánh Linh, Đấng đem ý chí chúng ta từ không tin đến tin tưởng” (can. 5: DS 375). Thánh Phaolô nói ân sủng này có giá trị vĩnh cửu vì “giá trị đó vẫn tồn tại.” Và ân sủng đức tin được an bài ảnh hưởng trọn đời chúng ta, cho tới khi chết, khi đức tin tới viên mãn và dẫn tới thị kiến hạnh phúc.
Trong Thư cho tín hữu tại Corinth, Thánh Phaolô qui chiếu đức tin cách đặc biệt cho Chúa Thánh Linh. Thánh Tông Đồ (Phaolô) nhắc các tín hữu nhớ Chúa Thánh Linh hoạt động trong lời ngài rao giảng: “Lời tôi nói và rao giảng không phải là những lời khôn khéo hấp dẫn khôn ngoan, nhưng dựa vào Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa” (1 Cor 2:4). Thánh Phaolô không những chỉ nhắc đến những phép lạ kèm theo lời ngài rao giảng (tc. 2 Cor 12:12), nhưng cũng nhắc đến những ân sủng và minh chứng của Chúa Thánh Linh mà Chúa Giêsu đã hứa trước khi về trời (tc. Cv 1:8).
Chúa Thánh Linh ban cho Thánh Phaolô, cách đặc biệt trong việc ngài rao giảng, trong khi ở với các tín hữu tại Corinth, ngài đã không biết điều gì “ngoài Chúa Giêsu Kitô, Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh thập giá” (1 Cor 2:2). Chúa Thánh Linh tác động cho Thánh Phaolô trình bày Chúa Kitô là đối tượng chính yếu của đức tin, theo nguyên tắc mà Chúa Giêsu đã minh xác tại căn phòng trên lầu: “Ngài (Chúa Thánh Linh) sẽ tôn vinh Thầy” (Jn 16:14). Như thế Chúa Thánh Linh là Đấng linh ứng thúc đẩy các tông đồ rao giảng. Thánh Phêrô nói rõ điều này trong Thư I của ngài: các tông đồ “rao giảng Tin Mừng cho anh chị em nhờ Chúa Thánh Linh được phái từ trời đến” (1 Pet 1:12).
Chúa Thánh Linh cũng là Đấng xác nhận việc rao giảng này, như Sách Công Vụ nói về Thánh Phêrô rao giảng cho ông Cornelius và các tùy tòng của ông ta: “Chúa Thánh Linh ngự xuống trên tất cả mọi người đang nghe lời (thánh Phêrô giảng)” (Cv 10:44). Thánh Phêrô viện dẫn việc Chúa Thánh Linh ngự xuống trên những người nghe ngài nói tại nhà ông Cornelius để minh chứng Chúa Thánh Linh phê chuẩn việc ngài tiếp nhận những người không phải Do Thái vào Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Linh soi sáng những người ngoại (giáo) đó chấp nhận lời Thánh Phêrô rao giảng và đưa họ đến đức tin của cộng đồng Kitô. Và lần nữa, như ở Thánh Phaolô, Thánh Linh cũng đặt Chúa Giêsu Kitô làm trọng tâm việc rao giảng của Thánh Phêrô.
Thánh Phêrô minh xác cách vắn gọn: “Thiên Chúa đã dùng quyền năng và Thánh Linh tấn phong Chúa Giêsu Nazareth ... chúng tôi là chứng nhân đã chứng kiến tất cả mọi việc Ngài đã làm ...” (Cv 10:38-39). Đức tin đòi phải tin Chúa Giêsu Kitô là Đấng được thánh hiến trong Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh ban sự sống cho việc tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô. Theo Thánh Phaolô, hành động đức tin đứng trước và trên tất cả “các đặc sủng”.
Về hành động này, ngài nói: “Không người nào có thể tuyên xưng ‘Chúa Giêsu là Chúa,’ nếu không nhờ Chúa Thánh Linh” (1 Cor 12:3). Việc nhận biết Chúa Kitô, đi theo Ngài và làm chứng về Ngài là công việc của Chúa Thánh Linh. Công Đồng Orange (529) và Công Đồng Vatican I (1869-1870) đề cập đến giáo thuyết trong 1 Cor 12:3 dẫn thượng, mà theo đó không một ai có thể giữ vững việc rao giảng tông đồ “nếu Chúa Thánh Linh không soi sáng, hướng dẫn, ban cho mọi người ơn vâng phục tuân theo và tin vào chân lý” (Const. Dei Fillius, c.3; DS 3010).
Trích dẫn Công Đồng Orange, Thánh Thomas giải thích: khởi đầu đức tin là một hồng ân Thiên Chúa (tc. Eph 2:8-9). Đức tin là một hồng ân Thiên Chúa vì “khi thuận theo chân lý Phúc Âm, người ta được nâng lên khỏi mức độ tự nhiên của mình ... và điều đó chỉ có thể xảy ra nhờ nguyên lý siêu nhiên là Thiên Chúa hoạt động trong nội tâm. Vì thế, đức tin phát xuất từ Thiên Chúa Đấng hoạt động trong lòng người ta bằng ân sủng” (Summa Theol., II-II, q. 6, a. 1). Sau khi khởi đầu đức tin, tất cả mọi việc phát triển tiếp theo đều xảy ra dưới sự tác động của Chúa Thánh Linh.
Tiếp tục đào sâu đức tin đưa người ta tới sự hiểu biết sâu xa hơn chân lý đã tin theo là công việc đặc biệt của Chúa Thánh Linh, Đấng ban cho linh hồn khả năng nhạy bén mới hơn nữa ngõ hầu thấm sâu vào mầu nhiệm đức tin (tc. Summa Theol., II-II, q.8, aa. 1, 5). Thánh Phaolô viết “sự khôn ngoan không thuộc về trần thế này” được Thiên Chúa ban cho người đi theo con đường hợp với Phúc Âm.
Thánh Phaolô trích một vài đoạn trong Cựu Ước (tc. Is 64:3; Jer 3:16; Sir 1:8) để chứng minh mạc khải, mà ngài và các tín hữu ở Corinth chấp nhận, vượt quá những kỳ vọng cao nhất của loài người: “Điều, mắt không hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không khi nào nghĩ tới, là điều Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những người yêu mến Ngài, điều Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta nhờ Thánh Linh
. Vì Thánh Linh thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cor 2:9-10). “Chúng ta không nhận lãnh thần trí của thế gian nhưng (tiếp nhận) Thánh Linh phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những gì được Thiên Chúa ban cho chúng ta” (1 Cor 2:12). Vì thế, nhờ trưởng thành trong đức tin, “chúng ta nói điều khôn ngoan” (1 Cor 2:6) nhờ việc làm của Chúa Thánh Linh Đấng đem lại điều khám phá luôn luôn mới về các chân lý bao gồm trong mầu nhiệm Thiên Chúa.
Đức tin đòi hỏi sống thuận hợp với chân lý được nhìn nhận và tuyên xưng. Theo Thánh Phaolô, “đức tin hoạt động nhờ tình yêu” (Gal 5:6). Dẫn chiếu lời này của Thánh Phaolô, Thánh Thomas giải thích “đức bác ái là một hình thức đức tin” (II-II, q. 4, a. 3) có nghĩa: đức tin là nguyên lý tâm cốt đem lại cho đức ái sự sống và sinh lực. Vì thế lòng tin là một thánh đức (II-II, q. 4, a. 5) và lòng tin tiếp tục gắn bó không ngừng với Thiên Chúa, có liên quan với cách sống và những liên hệ của con người, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.
Công Đồng Vatican II nhắc chúng ta nhớ điều dẫn thượng như sau: “Thánh Linh chân lý khơi dậy và duy trì việc nhận định rõ những vấn đề đức tin, dưới sự hướng dẫn của huấn quyền ... Qua đó, Dân Thiên Chúa gắn bó khắng khít với đức tin chỉ một lần được ban cho các thánh, họ thấm đượm đức tin thêm mãi nhờ phán đoán đứng đắn và sống đức tin cách hoàn hảo hơn” (LG 12). Như thế chúng ta hiểu lời Thánh Phaolô hô hào: “Anh chị em hãy sống theo Thánh Linh” (Gal 5:16). Chúng ta hiểu sự cần thiết của việc cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh, xin Ngài ban cho chúng ta ơn hiểu biết, nhưng cũng xin ơn thích hợp đời sống chúng ta với chân lý mạc khải.
Chúng ta cũng xin Chúa Thánh Linh trong thánh ca Veni, Creator Spiritus: “Nhờ Ngài xin cho chúng con biết Chúa Cha, nhờ Ngài chúng con biết Chúa Con hằng hữu”; nhưng chúng con cũng xin: “Xin hướng dẫn lòng trí chúng con bằng ánh sáng chứa chan hồng ân của Ngài, Xin lửa yêu mến đốt cháy trái tim chúng con; Và nhờ quyền năng vô cùng của Chúa Xin kiên định hình hài phải chết của chúng con. Xin xua đuổi kẻ thù chết chóc xa khỏi chúng con, Xin ban bình anh đích thực cho tâm hồn chúng con; Xin đưa chúng con an toàn thoát khỏi mọi nguy nan Dưới cánh thánh của Chúa.”
Và trong bài ca tiếp liên Lễ Hiện Xuống chúng ta tuyên xưng: “Nếu không có Chúa, loài người chỉ là hư không, Chẳng có điều gì tốt lành cả việc làm lẫn tư tưởng.” Kế đến chúng ta xin Ngài: “Xin chữa lành mọi thương tích của chúng con, xin canh tân sức mạnh chúng con; Xin tuôn đổ sương sa xuống lòng khô khan của chúng con; Xin tẩy sạch mọi tì vết tội lỗi chúng con. Xin uốn nắn trái tim và ý chí chai đá của chúng con; Xin làm chảy tan băng giá, xin sưởi ấm tâm hồn lạnh băng; Xin hướng dẫn bước đường chúng con khỏi sai lạc.” Trong đức tin chúng ta đặt toàn thể cuộc đời chúng ta dưới uy lực tác động của Chúa Thánh Linh.
Buổi gặp chung ngày 8 tháng Năm, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
76. Thánh Linh Là Nguồn Sống Yêu Thương Mới
Trong linh hồn người Kitô hữu có một tình yêu mới giúp họ chia sẻ tình yêu của chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã ban Chúa Thánh Linh cho chúng ta và qua Ngài mà tuôn đổ tình yêu của Thiên Chúa vào tâm hồn chúng ta” (Rom 5:5). Tình yêu này thuộc bản chất thần linh và cao hơn những khả năng linh hồn nhân loại.
Theo hệ thống thuật ngữ thần học thì tình yêu đó là “bác ái.” Tình yêu siêu nhiên này giữ vai trò căn bản trong đời sống Kitô hữu. Thánh Thomas nhấn mạnh: rõ ràng đức bác ái không những là “nhân đức cao quí nhất trong mọi nhân đức (excellentissima omnium virtutum),” nhưng cũng là “khuôn đúc mọi nhân đức, vì nhờ đức yêu thương mọi hành động của các nhân đức khác được sắp đặt theo mục đích chính đáng chung cục của các nhân đức đó” (Summa Theol., II-II, q. 23, aa. 6 và 8).
Vì thế, đức ái là giá trị tâm cốt của con người mới, “được tạo dựng theo Thiên Chúa trong sự công chính và thánh thiện của chân lý” (Eph 4:24; tc. Gal 3:27; Rom 13:14).
Nếu so sánh cuộc sống Kitô hữu với tòa cao ốc đang được xây dựng, thì chúng ta dễ dàng nhìn thấy: đức tin là nền tảng tất cả mọi thánh đức gồm trong đức tin. Công Đồng Trent dạy “đức tin là khởi đầu ơn cứu độ nhân loại, nền tảng và nguồn mạch mọi điều công chính” (tc. DS 2532).
Nhưng sự kết hiệp với Thiên Chúa qua đức tin đem lại sự hợp nhất với Ngài trong đức ái, một tình yêu thần linh mà trong đó linh hồn nhân loại chia sẻ sức mạnh tích cực và hiệp nhất. Khi thông ban sinh lực cho linh hồn, Chúa Thánh Linh làm cho linh hồn nhờ đức ái siêu nhiên có khả năng nhận thức lệnh truyền hai lớp về đức yêu thương mà Chúa Giêsu Kitô đã ban truyền: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người khác. “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng ...” (Mc 12:30; tc. Tl 6:4-5).
Chúa Thánh Linh cho linh hồn khả năng chia sẻ tình con thảo yêu mến Chúa Cha của Chúa Giêsu, mà theo lời Thánh Phaolô thì “Những người được Thánh Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa” (Rom 8:14). Chúa Thánh Linh làm cho chúng ta yêu mến Chúa Cha như Chúa Con đã yêu mến Chúa Cha, nghĩa là với tình yêu của con cái hiếu thảo biểu lộ trong tiếng kêu “Cha ơi” (tc. Gal 4:6; Rom 8:15)
. Nhờ Thánh Linh, tình yêu con thảo lan tỏa khắp hoạt động của những người là con cái Thiên Chúa. Nhờ ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh, toàn thể cuộc sống của chúng ta trở nên lễ phẩm dâng lên Chúa Cha, đầy ắp lòng tôn kính và thảo hiếu. Khả năng tuân giữ giới răn “yêu thương người khác,” cũng từ Chúa Thánh Linh đến. Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ và tất cả mọi người theo Chúa: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Những lời “như Thầy đã yêu thương anh em” đem lại giá trị mới cho tình yêu siêu nhiên, tình yêu này là sự chia sẻ trong tình Chúa Kitô yêu thương nhân loại, và vì thế, là một chia sẻ tình yêu vĩnh cửu từ khởi nguồn là đức ái.
Thánh Thomas viết: “Bản thể tự ngã của Thiên Chúa là tình yêu, vì bản thể đó là sự khôn ngoan và thiện hảo. Bởi thế, chúng ta có thể nói chúng ta tốt lành vì sự tốt lành chính là Thiên Chúa; chúng ta khôn ngoan vì sự khôn ngoan chính là Thiên Chúa, nhờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chúng ta chia sẻ làm cho chúng ta trở nên thực sự tốt lành; thế nên chúng ta thực sự yêu thương tha nhân nhờ chia sẻ đức ái thần linh” (Summa Theol., II-II, q. 23, a. 2. ad 1).
Chúa Thánh Linh tác động việc chia sẻ này, Ngài cho chúng ta khả năng không những chỉ yêu mến Thiên Chúa, mà cũng yêu thương người khác, như Chúa Giêsu Kitô đã yêu mến Thiên Chúa. Đúng vậy, chúng ta có thể yêu mến tha nhân vì nhờ tình yêu của Thiên Chúa đã trút vào trái tim chúng ta, chúng ta có thể yêu thương người khác và cả những thụ tạo không có lý trí (tc. Summa Theol., II-II, q. 25, a. 3) như Thiên Chúa yêu thương chúng.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rất khó mà yêu thương người khác theo quan niệm này. Tuy vậy, yêu thương người khác là chính tâm cốt luân lý đạo đức Kitô Giáo, vì là hồng ân từ Thánh Linh mà đến và chúng ta phải cầu xin Ngài ban cho hồng ân này. Thánh Phaolô minh xác điều này trong Thư gửi tín hữu tại Galat, ngài khuyến khích các tín hữu sống trong sự tự do đã lãnh nhận bởi luật mới yêu thương: “Nhưng anh chị em đừng sử dụng sự tự do này mà phục vụ xác thịt; trái lại, hãy phục vụ giúp đỡ nhau trong yêu thương” (Gal 5:13). “Vì toàn thể lề luật được trọn toàn trong một giới răn duy nhất, đó là ‘Anh chị em hãy yêu thương người lân cận như chính mình’” (Gal 5:14).
Sau khi khuyên nhủ: “Vì thế, tôi xin nói: anh chị em hãy sống theo Thánh Linh và như vậy anh chị em sẽ không còn thỏa mãn đam mê xác thịt nữa” (Gal 5:16), Thánh Phaolô nói rõ tình yêu bác ái (agâpe) là “hoa trái” đầu tiên “của Chúa Thánh Linh” (Gal 5:22). Vì thế, chính Chúa Thánh Linh cho chúng ta khả năng hành trình trong yêu thương và khắc phục mọi trở ngại đối với đức ái. Trong Thư I gởi tín hữu tại Corinth, dường như Thánh Phaolô cố ý kéo dài bản liệt kê và mô tả các đặc tính của đức ái đối với tha nhân.
Đúng vậy, sau khi khuyên nhủ chúng ta kỳ vọng vào “những ơn thiêng liêng cao cả nhất” (1 Cor 12:31), Thánh Tông Đồ ca tụng đức ái cao cả hơn tất cả mọi đặc sủng mà Chúa Thánh Linh ban cho và là điều thiết yếu hơn đối với đời sống Kitô hữu. Từ lời nói và linh hồn người tín hữu trào dâng lên lời ca tụng đức ái và có thể coi là bài tụng ca ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh đối với phẩm hạnh con người. Theo bối cảnh này, đức ái mang chiều kích luân lý đạo đức thực tiễn: “Đức ái thì nhẫn nhục, yêu thương thì hiền hậu.
Đức ái không ghen tương, không vênh váo huyênh hoang, không tự đắc, không thô bạo, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù. Đức ái không mừng khi thấy điều gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thực. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng mọi sự, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cor 13:4-7). Khi kể ra “những hoa trái của Thánh Linh” (Gal 5:22) song song với bài ca đức ái, Thánh Phaolô muốn cho thấy một vài tâm thái cốt yếu của đức ái. Trong số những tâm thái này là:
1. Trước nhất là nhẫn nại: “Bác ái thì nhẫn nhục” (1 Cor 13:4). Chúng ta có thể ghi nhận chính Thánh Linh làm gương sáng về đức nhẫn đối với các tội nhân và lối sống sai lầm của họ. Trong Phúc Âm, các kinh sư và biệt phái gọi Chúa Giêsu là “bạn của những người thu thuế và người tội lỗi” (Mt 11:19; tc. Lc 7:34). Thánh Thomas nhận xét đức nhẫn là một phản ánh chính tình yêu của Thiên Chúa, “Đấng yêu mến tỏ lòng xót thương và yêu chúng ta vì chúng ta thuộc về Ngài” (Summa Theol., II-II, q. 30, a. 2, ad 1).
2)Đức nhân từ là hoa trái của Thánh Linh: “đức ái thì nhân từ hiền hậu” (1 Cor 13:4). Đức ái cũng là phản ánh lòng nhân từ thần linh đối với tha nhân, quan tâm và đối xử với lòng thông cảm và hiểu biết.
3) Lòng đại lượng “không tìm tư lợi” (1 Cor 13:5). Đức ái sẵn sàng cho đi cách quảng đại, tình yêu của Chúa Thánh Linh gia tăng các ân sủng của Ngài và chia sẻ tình yêu của Chúa Cha với các tín hữu.
4) Sau cùng là lòng khoan dung: “không nóng giận” (1 Cor 13:5). Chúa Thánh Linh giúp Kitô hữu phát sinh trong chính họ “con tim hiền lành và khiêm nhượng” của Chúa Kitô và thực hành nhân đức hiền lành khoan dung Chúa đã rao giảng (tc. Mt 5:5). Khi kể ra “những tác dụng của xác thịt” (tc. Gal 5:19-21), Thánh Phaolô minh xác những đòi hỏi của đức ái, từ đó tràn ra những nhiệm vụ chính yếu đối nghịch với những khuynh hướng của thú vật thuyết (homo animalis,) tức là nạn nhân của những dục vọng con người.
Thánh Phaolô có ý nói đặc biệt phải tránh xa lòng ghen ghét và ganh đua; nhưng muốn sự tốt lành cho người khác; tránh lòng thù hằn, bất đồng, chia rẽ, tranh cãi gây gỗ; và cổ võ mọi điều đem lại hiệp nhất. Trong ca vịnh của Thánh Phaolô về đức ái nhấn mạnh: đức ái “không nuôi hận thù” (1 Cor 13:5). Chúa Thánh Linh, Thần Linh ánh sáng và yêu thương, linh ứng thúc đẩy lòng đại lượng tha thứ đối với những đau khổ và những mất mát phải chịu, và làm cho người tín hữu thi hành điều này khi Ngài mạc khải cho họ những đòi hỏi vô hạn của đức ái.
Lịch sử minh xác sự thật về điều chúng ta vừa mới giải thích. Đức ái chiếu sáng trong cuộc đời các thánh và Giáo Hội từ ngày Lễ Hiện Xuống đến nay. Tất cả các thánh và mọi thế hệ thuộc lịch sử Giáo Hội mang những chứng tích đức ái và Chúa Thánh Linh. Có thể nói trong một số giai đoạn lịch sử, dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Thánh Linh, đức ái mang những hình thái đặc biệt tiêu biểu bằng hành động cứu trợ và nâng đỡ những người đau khổ đói khát, bệnh tật và dịch tệ (cả thời) xưa (và thời) nay.
Vì thế, có rất nhiều “vị thánh bác ái,” như các ngài được đặc biệt vinh danh trong thế kỷ thứ 19 và thời đại chúng ta. Các vị đó là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Tất cả các vị thánh đều là “những tôi tớ, người phục vụ” đức ái. Nhiều vị đã được Giáo Hội vinh danh và những vị khác được vinh danh bởi các sử gia, những người có khả năng nhìn bằng cặp mắt của họ hoặc khám phá ra từ các tài liệu tính cách cao cả của những người theo Chúa Kitô và là tôi tớ của Thiên Chúa.
Mặc dầu vậy, đa số vẫn ẩn danh trong đức ái mà các ngài không ngừng tuôn tràn sự tốt lành cho thế giới. Vinh danh những chiến sĩ vô danh này là những chứng nhân âm thầm của đức ái! Thiên Chúa biết các vị đó; Thiên Chúa mới thực sự vinh danh các ngài! Chúng ta phải biết ơn các ngài vì các ngài là bằng chứng lịch sử về “tình yêu của Thiên Chúa được Chúa Thánh Linh tuôn đổ vào trái tim nhân loại,” Ngài là đệ nhất sáng tạo gia và là nguyên lý cốt yếu đức ái Kitô Giáo.
Buổi gặp chung ngày 22 tháng Năm, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
77. Chúa Thánh Linh Là Nguyên Lý Hòa Bình
Hòa bình là khát vọng lớn lao của nhân loại ngày nay. Hòa bình đến dưới hai hình thức chính yếu: loại bỏ chiến tranh, giải quyết những tranh chấp giữa các quốc gia hoặc thể chế, những tranh chấp và bất công xã hội bằng thực thi công lý. Ai có thể chối việc truyền bá những quan điểm này tiêu biểu sự tiến bộ về tâm lý xã hội, tâm lý chính trị, cộng đồng sinh tồn của quốc gia và quốc tế? Đây là thành quả những nỗ lực vận động tích cực của Giáo Hội mà nhiệm vụ của Giáo Hội là rao giảng và cầu nguyện cho hòa bình.
Giáo Hội không thể không vui mừng khi thấy những thành quả mới về những cơ cấu luật pháp, xã hội và chính trị, và quan trọng hơn cả là nơi chính ý thức của nhân loại về hòa bình. Tuy nhiên, ngày nay những tranh chấp sâu xa vẫn còn khắp thế giới và là nguồn gốc nhiều tranh luận về đạo đức luân lý và văn hóa, thêm vào với những tranh chấp về kinh tế và chính trị.
Thực tế và thành thật, chúng ta không thể không nhìn nhận sự khó khăn, hầu như không thể duy trì hòa bình nếu không có một nguyên lý cao hơn thuộc quyền năng Thiên Chúa hoạt động sâu thẳm trong tâm trí nhân loại. Theo tín điều mạc khải thì nguyên lý này là Chúa Thánh Linh, Đấng ban sự bình an tâm hồn cho mọi cá nhân, một sự bình an nội tâm làm nền tảng hòa bình xã hội. Khi nói với các môn đệ tại căn phòng trên lầu, chính Chúa Giêsu đã loan báo sự bình an của Ngài: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Jn 14:27).
Sự bình an này Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ qua ơn Chúa Thánh Linh là Đấng ban sự bình an của Chúa Giêsu cho trái tim nhân loại. Trong Phúc Âm theo thánh Gioan, lời hứa bình an đi theo lời hứa Đấng An Ủi đến (tc. Jn 14:26). Việc kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô thể hiện qua Chúa Thánh Linh Đấng được phái đến để hoàn tất sứ mệnh của Chúa Cứu Thế. Chúng ta cần phải ghi chú là Chúa Kitô đã loan báo và hứa sự bình an của Ngài song song với sự tha thứ tội lỗi, như trong những lời Chúa Giêsu Phục Sinh nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em ... Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Linh. Anh em tha tội cho người nào thì người ấy được tha thứ khỏi tội lỗi” (Jn 20:21-23).
Sự bình an này là kết quả của hy sinh cứu độ, hoàn tất trên thập giá, đạt tới sung mãn trong vinh quang của Chúa Kitô. Sự bình an điển hình đệ nhất mà nhân loại cần có là sự an bình đạt được do khắc phục chướng ngại tội lỗi. Chỉ có Thiên Chúa mới ban sự bình an trong tâm hồn. Vì công nghiệp hy sinh của Chúa Kitô, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho con người. Đối với nhân loại, Chúa Thánh Linh, Đấng hoàn tất sự tha thứ cho mỗi cá nhân, là nguyên lý chính yếu của sự bình an căn bản, mà sự bình an tâm hồn thì cốt ở việc làm hòa với Thiên Chúa.
Theo Thánh Phaolô thì sự bình an tâm hồn là “hoa trái của Chúa Thánh Linh” nối liền với đức yêu thương: “Hoa trái của Thánh Linh là yêu thương, vui vẻ, bình an ...” (Gal 5:22). Theo Thánh Tông Đồ, sự bình an của Chúa Thánh Linh đối nghịch với những việc làm của xác thịt vốn là “hận thù, bất hòa, ghen ghét, nóng giận, tranh chấp ích kỷ, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ ...” (Gal 5:20). Đấy là bản liệt kê những chướng ngại chính cản trở sự bình an tâm hồn và xã hội. Đúng vậy, vì Chúa Thánh Linh biến đổi tâm tính người ta, Ngài cũng linh ứng một thái độ căn bản về hòa bình thế giới. Thánh Phaolô nói “Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta” (tc. Eph 2:14).
Và ngài giải thích: Chúa Kitô đã thiết lập hòa bình bằng việc làm hòa tất cả mọi người với Thiên Chúa qua hy lễ trên thánh giá, từ hy lễ thánh giá “con người mới” được sinh ra trên đống tro chia rẽ bất đồng và hận thù của nhân loại. Nhưng Thánh Phaolô nói thêm rằng sự bình an trong tâm hồn được hoàn thành trong Chúa Thánh Linh: “Nhờ Chúa Kitô chúng ta liên kết trong một Thánh Linh duy nhất mà đến với Chúa Cha” (Eph 2:18).
Sự bình an này luôn luôn là sự bình an duy nhất đích thực của Chúa Kitô tuôn đổ vào trái tim chúng ta và cảm nghiệm được nhờ Chúa Thánh Linh tác động. Trong Thư gửi các tín hữu tại Philippi, Thánh Phaolô nói sự bình an là một hồng ân Thiên Chúa ban cho những ai hướng về Ngài, ngay cả giữa những lúc khó khăn trong cuộc sống, “dưới mọi hình thức cầu nguyện và van xin với hết lòng biết ơn ...” Ngài quả quyết với họ: “Sự bình an của Thiên Chúa, vượt trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho tâm trí anh chị em kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô” (Phil 4:6-7).
Cuộc đời các thánh là bằng chứng nguồn gốc sự bình an của Thiên Chúa. Sự bình an trong cuộc đời các ngài là sự bình thản nội tâm giữa những thử thách đau đớn nhất và giông tố hãi hùng nhất hầu như cuốn các ngài đi mất. Thứ gì đó, đúng ra là Ai đó, hiện diện và hoạt động nơi các ngài để bảo vệ các ngài không phải chỉ thoát khỏi những cơn sóng gió thuộc những biến cố ngoại tại, mà còn thoát khỏi sự yếu đuối và sợ hãi của chính mình. Chúa Thánh Linh là Đấng tạo ra sự bình an, hoa trái của đức ái, mà Ngài đổ vào tâm hồn nhân loại (tc. Summa Theol., II-II, q. 29, aa. 3-4).
Theo Thánh Phaolô, “nước Thiên Chúa ... là sự công chính, bình an và vui mừng trong Chúa Thánh Linh” (Rom 14:17). Thánh Tông Đồ trình bày nguyên tắc này khi ngài khuyến khích các Kitô hữu đừng khắc nghiệt lên án những người yếu đuối nhất ở giữa họ. Những người yếu đuối đó không thể tự giải thoát khỏi những lối sống khổ chế dựa trên sự sai lầm về tinh khiết, như cấm ăn thịt và uống rượu (nho/vang), mà những cấm kị sai lầm đó vốn là cách sống của người ngoại giáo (theo phái Phythagore) và một số người Israel (theo phái Essenes).
Thánh Phaolô kêu gọi họ theo lề luật của lương tâm trong sáng và ngay thẳng (tc. Rom 14:5-6, 23), nhưng đặc biệt là được đức ái soi dẫn để hành động mạnh dạn khôn ngoan: “Không có gì tự nó là ô uế ... Nếu người anh em của anh chị em phiền vì anh chị em ăn thứ gì đó, thì anh chị em không còn hành động theo đức ái. Đừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của mình phải hư mất, vì Chúa Kitô đã chết cho người ấy” (Rom 14:14-15).
Bởi thế Thánh Phaolô khuyên nhủ phải tránh gây ra xáo trộn trong cộng đồng, không dấy động xung đột và không xúc phạm người khác. Ngài khuyến khích: “Vì thế anh chị em hãy theo đuổi điều dẫn đến hòa bình và xây dựng cho nhau” (Rom 14:19). Mọi người cần phải lưu tâm duy trì sự hòa thuận, đừng dùng sự tự do của Kitô hữu theo cách gây ra xúc phạm hoặc làm tổn hại người khác. Nguyên tắc được Thánh Tông Đồ trình bày là đức ái cần hướng dẫn và điều chỉnh sự tự do. Để giải quyết vấn đề đặc biệt này, Thánh Phaolô trình bày rõ ràng nguyên tắc tổng quát: “Nước Thiên Chúa là sự bình an trong Chúa Thánh Linh.”
Người Kitô hữu cần quyết tâm tuân theo hoạt động của Chúa Thánh Linh bằng cách nuôi dưỡng trong linh hồn mình “hướng đi của Thánh Linh là sự sống và bình an” (Rom 8:6). Vì lý do trên, Thánh Tông Đồ nhắc lại những lời ngài huấn dụ các tín hữu: “duy trì hiệp nhất mà Thánh Linh đem lại và thuận hòa gắn bó với nhau” (Eph 4:3); hành động “thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, yêu thương chịu đựng lẫn nhau” (Eph 4:2); và tiếp tục tránh xa “lôi cuốn của xác thịt là thù địch của Thiên Chúa” và xung khắc với khuynh hướng Thần Linh mà (khuynh hướng) đó là “hướng về sự sống và bình an” (Rom 8:6-7).
Chỉ nếu các Kitô hữu liên kết trong “thuận hòa gắn bó” thì họ mới “liên kết trong Thánh Linh” và là những người đích thực theo Chúa Kitô, Đấng đã đến để đem hòa bình cho trần gian. Thánh Phaolô ước muốn các tín hữu lãnh nhận từ Thiên Chúa hồng ân cao cả là yếu tố căn cốt của sự sống trong Chúa Thánh Linh: “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng đổ đầy tâm hồn anh chị em chan chứa vui mừng và bình an trong đức tin ... nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh” (Rom 15:13).
Để kết bài giáo lý này, cha cầu chúc bình an trong Chúa Thánh Linh cho tất cả mọi Kitô hữu và cho mọi người. Và cha ước nguyện nhắc nhớ lần nữa, theo giáo huấn của Thánh Phaolô và nhân chứng của nhiều linh hồn thánh thiện, Chúa Thánh Linh làm cho những ơn soi sáng của Ngài được nhận biết do sự bình an trong tâm hồn. Chúa Thánh Linh thúc đẩy chúng ta tiến tới hòa bình, chứ không đi theo những lo âu, bất hòa, chia rẽ và chống đối điều tốt lành. Có thể có sự khác biệt ý kiến hợp lý về những điểm đặc biệt và về những phương cách đạt tới mục tiêu chung, nhưng đức ái thúc đẩy chia sẻ trong Chúa Thánh Linh hướng về sự hòa hợp sâu xa và hiệp nhất trong điều tốt lành theo ý Chúa. Thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của sự hỗn loạn nhưng là Thiên Chúa của sự bình an” (1 Cor 14:33).
Hiển nhiên điều này đúng đối với sự bình an tâm hồn trong các cộng đồng Kitô hữu. Nhưng khi Chúa Thánh Linh ngự trị trong trái tim, Ngài làm dấy lên lòng ước ao sử dụng mọi nỗ lực để kiến tạo hòa bình trong tương quan với người khác thuộc mọi cấp bậc: gia đình, dân sự, xã hội, luân lý chính trị, quốc gia và quốc tế (tc. Rom 12:18; Dt 12:14). Đặc biệt là Chúa Thánh Linh thúc đẩy các Kitô hữu dấn thân tham gia làm trung gian hòa giải xung đột và dùng đối thoại làm phương tiện chống lại những mưu toan và đe dọa của chiến tranh. Chúng ta cùng nhau cầu nguyện xin cho các Kitô hữu, Giáo Hội và tất cả mọi người thiện tâm được tích cực dấn thân hơn nữa trong việc trung thành vâng theo Thánh Linh hòa bình.
Buổi gặp chung ngày 29 tháng Năm, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
78. Chỉ Có Chúa Thánh Linh Mới Thật Sự Ban Niềm Hân Hoan
Chúng ta đã nhiều lần nghe Thánh Phaolô nói “sự vui vẻ là hoa trái của Thánh Linh” (Gal 5:22), cũng như tình yêu và sự bình an mà chúng ta đã thảo luận trong các bài giáo lý trước. Hiển nhiên ngài đề cập đến niềm vui chân thật tràn đầy tâm hồn nhân loại, và chắc chắn không phải là niềm vui nông cạn, tạm bợ nhất thời và thế tục.
Trên bình diện tâm lý và kinh nghiệm, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự thoái hóa trong lãnh vực khoái lạc và yêu thương. Sự thoái hóa này tỉ lệ với tiếng nói còn lại trong con người đối với những thú vui giả tạo và lừa lọc mà Thánh Phaolô gọi là “những việc làm của xác thịt” là “dâm bôn, ô uế, phóng đãng ... chè chén say xưa, trác táng và những thứ tương tự” (Gal 5:19, 21).
Theo lời Thánh Phaolô (tc. Eph 4:18-19), chúng ta có thể thêm vào những thú vui giả tạo trần thế và nhiều thứ nối kết với những thú vui đó, những điều tìm thấy trong việc sở hữu và lạm dụng của cải, sống xa hoa phung phí, tham quyền, nói tóm lại, theo lòng ham muốn điên cuồng tìm kiếm của cải trần thế, những thứ dễ dàng làm u tối tâm trí, mà Chúa Giêsu đã khóc than (tc. Mc 4:19).
Thánh Phaolô nhắc đến thế giới tà giáo để khuyến khích hô hào những người cải đổi và cảnh giác chống lại sự xấu xa ác độc: “Đó không phải là điều anh chị em học biết về Chúa Kitô, cho rằng anh chị em đã nghe nói về Ngài và được dạy dỗ về Ngài, đúng như sự thật ở Chúa Kitô, anh chị em cần phải cởi bỏ con người cũ của anh chị em khỏi cách sống xưa cũ, hư nát vì những ham muốn lừa dối, tâm trí anh chị em cần phải được đổi mới và anh chị em phải mặc lấy con người mới, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4:20-24).
Con người này là “thụ tạo mới” (tc. 2 Cor 5:17) mà Chúa Thánh Linh đã tác thành, vì Ngài hiện diện trong linh hồn người tín hữu và Giáo Hội Chúa Kitô. Thế nên, Thánh Tông Đồ kết luận lời ngài hô hào sống tốt lành và bình an như sau: “Anh chị em đừng làm phiền lòng Thánh Linh Thiên Chúa, vì chính Ngài là dấu ấn trên anh chị em vào ngày cứu độ” (Eph 4:30). Nếu một Kitô hữu “làm phiền lòng” Chúa Thánh Linh Đấng ngự trong linh hồn người đó, thì hiển nhiên người ấy không thể hy vọng sở hữu niềm vui đích thực từ Ngài: “Hoa trái của Thánh Linh là yêu thương, vui vẻ, bình an ...” (Gal 5:22).
Chỉ một mình Chúa Thánh Linh mới ban niềm vui sâu xa, tràn đầy và bền lâu, mà trái tim con người khao khát. Con người được tạo dựng để vui hưởng hạnh phúc, chứ không phải để chịu đau khổ. Đức Phaolô VI nhắc Kitô hữu và tất cả mọi người đồng thời với chúng ta nhớ điều này trong Tông Huấn Gaudete in Domino. Niềm vui đích thực là hồng ân Chúa Thánh Linh. Trong Thư gửi tín hữu tại Galat, Thánh Phaolô cho chúng ta biết niềm vui liên kết với tình yêu (tc Gal 5:22).
Bởi thế, không thể là một niềm vui ích kỷ, vì đó là kết quả của một tình yêu hỗn loạn. Niềm vui hoàn toàn bao gồm công lý trong nước Thiên Chúa, mà thánh Phaolô nói “là sự công chính, bình an và vui trong Chúa Thánh Linh” (Rom 14:17). Niềm vui này là vấn đề thuộc công lý Phúc Âm, cốt ở tính cách hợp với ý Thiên Chúa, vâng phục lề luật của Ngài và trong tình bằng hữu, trong ơn nghĩa với Ngài. Tách rời khỏi tình bằng hữu với Thiên Chúa thì không có niềm vui trọn vẹn.
Trái lại, theo Thánh Thomas giải thích: “Sự đau buồn là một sự dữ hoặc điều xấu, gây ra bởi tình yêu hỗn loạn đối với mình, ... là mầm mống mọi điều xấu xa” (Summa Theol., II-II, q. 28. q. 4. ad 1; tc. I-II, q. 72, a. 4). Tội lỗi là nguồn gốc chính của sự đau buồn, vì tội lỗi là sự lệch lạc hoặc hầu như cuốn hút linh hồn lìa xa trật tự công chính của Thiên Chúa, mà trật tự này đem lại sự kiên định cho cuộc sống nhân loại.
Chúa Thánh Linh, Đấng hoàn thành nơi con người sự công chính mới trong tình yêu, làm cho hết đau buồn và đem lại vui mừng, sự vui mừng mà chúng ta thấy rộ nở trong Phúc Âm. Phúc Âm là một mời gọi đến với sự vui mừng và là một kinh nghiệm về niềm vui chân thật và sâu xa. Trong biến cố Truyền Tin, thiên sứ đã chào kính Đức Maria: “Hãy vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” (Lc 1:28). Đây là bản tóm lược một loạt những lời mời gọi mà các ngôn sứ thời Cựu Ước đã đề ra (tc. Zech 9:9; Zep 3:14-17; Joel 2:21-27, Is 54:1). Sự vui mừng của Đức Maria thể hiện do việc Chúa Thánh Linh ngự đến, Ngài là lý do của sự vui mừng của Đức Maria.
Trong dịp Đức Maria thăm viếng, bà Elisabeth tràn đầy Chúa Thánh Linh và vui mừng, đã tham gia cách tự nhiên và siêu nhiên vào niềm hân hoan của người con còn trong lòng bà: “Con trẻ trong lòng tôi nhảy mừng” (Lc 1:44). Bà Elisabeth nhận biết sự vui mừng của con bà và bày tỏ sự vui mừng đó, nhưng theo lời thánh sử, chính Chúa Thánh Linh đổ tràn niềm vui này cho cả mẹ lẫn con. Đến phiên mình, ngay lúc đó, Đức Maria cảm thấy trong tâm hồn trào dâng bài ca reo vui diễn tả niềm vui khiêm tốn, rõ ràng và sâu xa tràn ngập Người, thể hiện “niềm vui mừng” thiên sứ báo tin: “Thần trí tôi vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1:47).
Cũng trong những lời này Đức Maria phản ánh, bắt chước, giọng điệu vui mừng của ngôn sứ như trong Sách Habakkuk: “Phần tôi, tôi nhảy mừng vì Chúa và hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Hab 3:18). Niềm hân hoan này lại nối tiếp khi dâng hiến Chúa Hài Đồng Giêsu trong Đền Thờ. Chúa Thánh Linh đã đốt cháy trái tim cụ già Simeon lòng khao khát nhìn thấy Đấng Thiên Sai, thúc đẩy cụ đến Đền Thờ gặp Chúa Hài Đồng và rất vui mừng (tc. Lc 2:26-32). Thánh sử cho biết: khi đó, một phụ nữ đã tận hiến cho Thiên Chúa là nữ ngôn sứ Anna đã chuyển dịch các tư tưởng và lệnh truyền của Chúa theo truyền thống Israel (tc. Xh 15:20; Thp 4:9; 2 Vua 22:14), bằng việc chúc tụng Thiên Chúa, biểu lộ niềm vui mà Chúa Thánh Linh tác động (tc. Lc 2:36-38).
Trong các lời Phúc Âm về cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, chúng ta thấy một lần chính Ngài đã “vui mừng trong Chúa Thánh Linh” (Lc 10:21). Chúa Giêsu diễn tả niềm vui và lòng biết ơn trong lời cầu nguyện chúc tụng lòng nhân từ yêu thương của Chúa Cha: “Lạy Cha, Con dâng lời chúc tụng Cha, là Chúa trời đất, vì dầu rằng Cha đã giấu những điều này không cho những người khôn ngoan thông thái biết, Cha đã mạc khải những điều đó cho những người như trẻ thơ. Vâng, lạy Cha, đó là thánh ý nhân từ của Cha” (Lc 10:21).
Nơi Chúa Giêsu, sự vui mừng tiêu biểu toàn thể sức mạnh thần cảm đối với Chúa Cha. Điều đó cũng đích thực đối với những niềm vui mà Chúa Thánh Linh soi dẫn và duy trì trong đời sống nhân loại. Sức mạnh tiềm ẩn và chính yếu của những niềm vui đó dẫn con người hướng về tình yêu và đầy lòng biết ơn đối với Chúa Cha. Mọi niềm vui chân thật đều có Chúa Cha là mục đích tối hậu. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài reo vui, khắc phục cám dỗ mọi buồn phiền vào lúc Thầy các ông ra đi, vì cuộc ra đi này là điều kiện mà Thiên Chúa đã ấn định cho việc Chúa Thánh Linh ngự đến: “Thầy ra đi thì tốt hơn cho anh em. Vì nếu Thầy không đi, Đấng An Ủi sẽ không đến với anh em. Nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ phái Ngài đến với anh em” (Jn 16:7).
Ơn Chúa Thánh Linh sẽ làm cho các môn đệ hết sức vui mừng, niềm vui trọn vẹn, theo ý Chúa Giêsu. Chúa Cứu Thế, sau khi kêu gọi các môn đệ ở lại trong tình yêu của Ngài, đã nói: “Thầy nói với anh em điều này để niềm vui của Thầy ở trong anh em và niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Jn 15:11; tc. 17:13). Công việc của Chúa Thánh Linh là gieo vào trái tim các môn đệ cùng một niềm vui Chúa Giêsu đã có, niềm vui trung thành với tình yêu từ Chúa Cha mà ra.
Thánh Luca làm chứng các môn đệ, những người nhận được lời hứa về ơn Chúa Thánh Linh vào lúc Chúa Giêsu lên trời, “đã trở lại Jerusalem lòng đầy hân hoan, và các ngài không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền thờ” (Lc 24:52-53). Trong Sách Công Vụ, sau khi Chúa Thánh Linh hiện xuống một bầu không khí vui mừng thấm thía tràn ngập các tông đồ. Cộng đồng đã chia sẻ niềm vui sướng này dưới hình thức chúc tụng và hân hoan ấp ủ niềm tin: “Mọi người dùng bữa với lòng hân hoan vui vẻ và trái tim chân thành, chúc tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến” (Cv 2:46-47).
Sách Công Vụ ghi: “Các môn đệ được tràn đầy vui mừng và Chúa Thánh Linh” (Cv 13:52). Những thống khổ và đàn áp mà Chúa Giêsu tiên báo khi Ngài cho biết việc Đấng An Ủi đến (tc. Jn 16:1 ff) đã sớm xảy ra. Nhưng theo Công Vụ Tông Đồ, sự vui mừng vẫn tồn tại ngay cả trong những thử thách. Các tông đồ, bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Sanhedrin), bị đánh đòn, bị hăm dọa rồi cho về. Các ngài trở về “vui mừng vì xứng đáng chịu đau khổ sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu. Và suốt ngày, cả trong đền thờ lẫn ở tư gia, các ngài không ngừng giảng dạy và loan truyền Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai” (Cv 5:41-42).
Hơn nữa, đấy là hoàn cảnh và số phận của các tín hữu Chúa Kitô, như Thánh Phaolô nhắn nhủ giáo đoàn Thessalonica: “(Và) anh chị em đã trở nên những người bắt chước chúng tôi và theo gương Chúa, nhờ niềm vui từ Chúa Thánh Linh, đã đón nhận lời Chúa giữa gian truân lớn lao” (1 Thess 1:6). Theo lời Thánh Phaolô, Kitô hữu phát sinh mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô trong chính họ, mà nền tảng mầu nhiệm Phục Sinh là thánh giá. Nhưng triều thiên vinh quang của thánh giá là “niềm vui trong Chúa Thánh Linh” dành cho những người kiên trì trong gian nan thử thách. Đó là vinh quang các mối phúc, đặc biệt là phúc dành cho người than khóc và người bị đàn áp bách hại (tc Mt 5:4; 10-12).
Thánh Phaolô đã chẳng từng nói: “Tôi hân hoan vui mừng trong những thống khổ của tôi vì anh chị em ...” (Col 1:24) đó sao? Và Thánh Phêrô cũng khuyến khích: “Nhưng anh chị em hãy vui mừng theo mức độ anh chị em chia sẻ những thống khổ của Chúa Kitô, để khi vinh quang của Ngài tỏ hiện, anh chị em cũng được vui mừng hoan hỉ” (1 Pet 4:13). Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa Thánh Linh luôn luôn thắp sáng trong chúng ta khát vọng những sự tốt lành trên trời và cho chúng ta tới được ngày vui hưởng trọn vẹn phước thiên đàng: “Lạy Chúa Thánh Linh, xin ban cho chúng con thánh đức và phần thưởng của thánh đức, xin cho chúng con ơn chết lành, xin cho chúng con được hưởng niềm vui vĩnh cửu.”
Amen.
Buổi gặp chung ngày 19 tháng Sáu, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
79. Chúa Thánh Linh Ban Sức Mạnh cho Kitô Hữu
Người thời nay cần ơn dũng cảm cương nghị vì họ phải đặc biệt đương đầu với những tấn công, cám dỗ và quyến dụ của trần thế. Ơn dũng cảm ban lòng can trường và kiên trì chiến đấu chống lại mãnh thần hằng bao vây những người sống trên địa cầu này. Thần dữ này muốn kéo con người xa khỏi đường dẫn tới thiên đàng. Nhiều người nao núng và đầu hàng, đặc biệt là trong những lúc bị cám dỗ và đau khổ.
Đối với tín hữu Chúa Kitô, cũng luôn luôn có rủi ro rơi khỏi đỉnh cao ơn gọi, đi trệch đường ân sủng Phép Rửa là hạt giống sự sống vĩnh cửu đã được ban cho họ. Chính vì lý do này mà Chúa Giêsu đã mạc khải và hứa ban cho chúng ta Chúa Thánh Linh là Đấng An Ủi và Bảo Vệ (tc. Jn 16:5-15).
Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn kiên cường siêu nhiên, cho chúng ta được chia sẻ quyền năng và sức mạnh của Đấng Thần Linh (tc. Summa Theol., I-II, q. q.5; q. 68, a. 4). Trong Cựu Ước, chúng ta tìm thấy nhiều bằng chứng Chúa Thánh Linh không chỉ nâng đỡ cá nhân mà còn nâng đỡ toàn thể nhân loại trong những khó khăn họ gặp phải suốt dòng lịch sử.
Tuy nhiên, sự kiện đặc biệt là Tân Ước mạc khải sức mạnh quyền năng của Chúa Thánh Linh và các tín hữu nhận được lời hứa về sự hiện diện và hành động của Ngài trong mọi cuộc phấn đấu, cho tới chiến thắng sau cùng. Chúng ta đã nhiều lần nói về điều này trong các bài giáo lý trước. Ở đây cha giới hạn vấn đề trên nên chỉ nêu ra sự kiện là: trong mầu nhiệm Truyền Tin, Thiên Chúa đã mạc khải và ban Chúa Thánh Linh là “quyền năng Đấng Tối Cao” cho Đức Maria, và cho Người biết “không điều gì Thiên Chúa không làm được” (tc. Lc 1:35-37).
Ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh hiển lộ quyền năng của Ngài qua biểu tượng cơn gió mạnh (tc. Cv 2:2), đã ban cho các tông đồ và tất cả mọi người tụ họp với các ngài “tất cả mọi người ở cùng một nơi” (Cv 2:1) sức mạnh mới mà Chúa Giêsu đã hứa trong lời từ biệt (tc. Jn 16:8-11) và trước khi lên trời: “Nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên anh em” (Cv 1:8; Lc 24:29).
Ơn Chúa Thánh Linh là sức mạnh nội tâm bắt nguồn từ tình yêu (tc. Eph 3:17). Thánh Phaolô viết cho các tín hữu tại Ephesus biết điều ngài cầu xin cho họ như sau: xin Thiên Chúa Cha “theo sự phong phú của Ngài là Đấng vinh hiển, cho nội tâm anh chị em được củng cố sức mạnh nhờ Thánh Linh của Ngài” (Eph 3:16).
Truyền thống Kitô hữu liệt kê sức mạnh này trong số các “ơn Chúa Thánh Linh” mà theo ngôn sứ Isaiah thì những ân sủng thần linh này là đặc tính của Đấng Thiên Sai (tc. Is 11:2 ff). Chúa Thánh Linh cũng ban cho các Kitô hữu những thần ân vốn đã tràn đầy Linh Hồn cực thánh Chúa Giêsu, mà một trong những ơn đó là uy lực kiên cường quán thế của Chúa Kitô trong cuộc đời và tử nạn của Ngài.
Chúng ta có thể nói những người Kitô hữu tham gia vào “cuộc chiến tinh thần” đều chia sẻ quyền uy thập giá! Chúa Thánh Linh luôn luôn can thiệp bằng hành động sâu xa trong mọi khoảnh khắc và dưới mọi khía cạnh của đời sống Kitô hữu để hướng dẫn những khát vọng của con người đi đúng đường, mà đường hướng đó là theo gương Chúa Giêsu: yêu thương đại lượng đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Vì mục đích này Chúa Thánh Linh củng cố ý chí, cho con người có khả năng chống lại những cám dỗ và giành được vinh thắng trong những cuộc phấn đấu trong (lòng và bên) ngoài. Chúa Thánh Linh cho người Kitô hữu khả năng chế ngự, khắc phục sức mạnh của ma quỉ và đặc biệt là Satan, như Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Linh đưa vào hoang địa (tc. Lc 4:1), và khả năng chu toàn các đòi hỏi về một đời sống theo Phúc Âm.
Chúa Thánh Linh ban ân cho người Kitô hữu sức mạnh trung thành, từ tốn khoan hòa và kiên trì trên đường lành và trong cuộc tranh đấu chống lại sự dữ. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Ezekiel nói cho dân chúng biết lời Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta trong các ngươi.” Mục đích của lời hứa trong Ez 36:27 vừa mới trích dẫn là để kêu gọi lòng trung thành của dân giao ước mới. Trong Thư gửi tín hữu tại Galat, Thánh Phaolô liệt kê “lòng khoan hòa,” “trung tín” và “tự chủ” trong số “các hoa trái của Chúa Thánh Linh” (tc. Gal 5:22).
Những nhân đức này cần thiết cho cuộc sống người Kitô hữu kiên định. Trong số các nhân đức đó, “đức khoan hòa” được tách riêng ra. Đức khoan hòa là đặc tính của đức ái (tc. 1 Cor 13:4) mà Chúa Thánh Linh gieo vào linh hồn cùng với chính đức ái (tc. Rom 5:5), là một phần của đức kiên dũng phải được tôi luyện khi đương đầu với sự dữ và những thử thách gian nan khi sống và lúc chết. Đức kiên dũng là “kiên (tâm) trì (chí)”.
Đức kiên trì là sự liên tiếp thực hiện việc thiện và chiến thắng những khó khăn xảy ra suốt cuộc đời. Đức kiên dũng tương tự như “đức chung thủy” làm cho người ta tiếp tục làm điều lành bất chấp những cản trở ngoại cảnh. Cả đức kiên dũng và đức chung thủy đều là hoa trái ân sủng Chúa Thánh Linh ban cho con người để đạt tới mục đích cuộc đời trên đường thiện hảo (tc St. Augustine De Perseverantia, c. 1: PL 45:993, De corr. et gratia, c. 12: PL 44:937).
Việc can đảm thực hành các nhân đức cần thiết đối với tín hữu Chúa Kitô, là những người, dù trong tình trạng ân sủng, vẫn còn yếu đuối trong sự tự do của mình. Thánh Augustine nhấn mạnh điều này trong cuộc tranh biện với những người theo Pelagius (tc. De corr. et gratia, c. 12 cit.).
Tuy nhiên, chính Chúa Thánh Linh ban sức mạnh siêu nhiên để chu toàn thiên ý và làm cho cuộc sống chúng ta hợp với lệnh Chúa Kitô truyền. Thánh Phaolô viết: “Vì luật của thánh linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô đã giải phóng anh chị em khỏi luật lệ tội lỗi và sự chết.” Như thế Kitô hữu có thể “bước đi trong Thánh Linh” và chu toàn “sự công chính của lề luật,” tức là chu toàn thiên ý (tc. Rom 8:2-4). Chúa Thánh Linh cũng ban cho chúng ta sức mạnh chu toàn sứ mệnh tông đồ đã ký thác cho những người được chỉ định rao giảng Phúc Âm và, trong mức độ nào đó, cho toàn thể Kitô hữu.
Bởi thế, khi phái các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu đã bảo các ngài chờ đợi cho tới khi Chúa Thánh Linh ngự xuống, để các ngài nhận được sức mạnh từ trời: “Nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Linh ngự đến trên anh em” (Cv 1:8). Chỉ với sức mạnh này các ngài mới có thể thi hành sứ mệnh Chúa Giêsu đã ký thác là làm chứng Phúc Âm khắp hoàn cầu. Vào mọi thời đại, dĩ chí ngày nay, Chúa Thánh Linh ban ơn cam kết sử dụng mọi năng lực và nguồn lực, tận dụng mọi tài năng của mình, để thi hành và nếu cần, dâng hiến mạng sống vì sứ mệnh đã lãnh nhận.
Chính Chúa Thánh Linh làm những điều lạ lùng trong hoạt động tông đồ của các tôi tớ nam nữ Thiên Chúa và trong Giáo Hội, những vị đó được Chúa Thánh Linh chọn và thúc đẩy. Trên hết là Chúa Thánh Linh bảo đảm sự hữu hiệu của việc làm lạ lùng như thế, bất kể khả năng tự nhiên của những người được kêu gọi. Thánh Phaolô cũng nói tới điều đó trong Thư I gửi tín hữu tại Corinth: việc rao giảng của chính ngài là một “biểu chứng của thần linh và uy lực” (1 Cor 2:4). Vì thế chính sứ mệnh tông đồ là thi hành “bằng lời nói và hành động, bằng uy lực của dấu lạ và việc lạ lùng, bằng quyền năng Chúa Thánh Linh” (Rom 15:18-19).
Thánh Phaolô quy chiếu giá trị việc rao giảng của ngài cho uy lực của Chúa Thánh Linh. Cho dù có những khó khăn đôi khi lớn lao phải đương đầu trong sứ mệnh tông đồ, Chúa Thánh Linh ban sức mạnh để kiên trì, canh tân lòng can đảm và giúp đỡ những người bị cám dỗ từ bỏ việc chu toàn sứ mệnh của họ. Đó là kinh nghiệm của chính cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, khi anh chị em tín hữu bị kẻ thù đức tin hành hạ áp bức đã cầu nguyện: “Và bây giờ, lạy Chúa, xin ghi nhận những đe dọa của họ và cho các tôi tớ Chúa ơn kiên cường rao giảng lời Chúa” (Cv 4:29). Và “Khi các ngài cầu nguyện, nơi các ngài tụ họp rúng động, các ngài được tràn đầy Chúa Thánh Linh và tiếp tục rao giảng lời Chúa cách kiên cường mạnh dạn” (Cv 4:31).
Chính Chúa Giêsu đã hứa Chúa Thánh Linh sẽ nâng đỡ những người bị bách hại: “Vì sẽ không phải là anh em nói nhưng Thánh Linh của Cha anh em nói qua anh em” (Mt 10:20). Công Đồng Vatican II đặc biệt gọi phước tử đạo là: “ân sủng cao quí nhất và thử thách siêu đẳng của tình yêu” (LG 42), là hành động anh hùng của đức kiên dũng mà Chúa Thánh Linh ban cho. Các thánh tử đạo thuộc mọi thời đại đã nêu cao ơn kiên dũng. Vì đức ái bao la rực cháy trong tim mà các ngài trực diện cái chết.
Thánh Thomas đã nghiên cứu nhiều trường hợp tử đạo thời trước gồm cả những vị rất trẻ tuổi và những văn bản giáo phụ liên quan đến các vị đó. Thánh Thomas kết luận phước tử đạo là “hành động toàn hảo nhất của con người,” vì đó là kết quả của tình yêu bác ái và là bằng chứng tính cách hoàn hảo vĩ đại nhất của tình yêu (tc. Summa Theol., II-II, q. 124, a. 3).
Chính Chúa Giêsu minh xác điều này trong Phúc Âm: “Không người nào có tình yêu lớn hơn người chết vì yêu thương bạn hữu” (Jn 15:13). Để kết luận, chúng ta phải nhắc lại Phép Thêm Sức là nhiệm tích mà trong đó Chúa Thánh Linh ban sức mạnh cho các tín hữu Chúa Kitô. Mục đích của Phép Thêm Sức là truyền thông ơn kiên dũng mà ơn đó cần thiết trong đời sống Kitô hữu, cho sứ mệnh tông đồ làm chứng nhân và hoạt động mà tất cả mọi Kitô hữu đều được kêu gọi. Sự kiện rất có ý nghĩa là nghi lễ làm phép dầu thánh hàm ngụ việc xức dầu mà Chúa Thánh Linh ban cho các vị tử đạo. Phước tử đạo là hình thức cao nhất của việc làm chứng nhân cho Chúa. Giáo Hội biết điều này và phó thác cho Chúa Thánh Linh duy trì việc làm chứng của các tín hữu tới mức độ anh hùng.
Buổi gặp chung ngày 26 tháng Sáu, 1991
CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
80.Chúa Thánh Linh Là Lời Giao Ước cho Hy Vọng Thế Mạt
Thánh Phaolô nói với tín hữu tại Corinth: đức hy vọng trông cậy là một trong những ân sủng vĩ đại nhất tồn tại mãi mãi (tc. 1 Cor 12:31). Đức hy vọng có vai trò nền tảng trong đời sống Kitô hữu, cũng như đức tin và đức ái, mặc dầu “đức ái cao quí nhất trong ba thánh đức” này (1 Cor 13:13).
Điều rõ ràng là đức hy vọng không được phép hiểu theo nghĩa giới hạn là một ân sủng đặc biệt, ngoại lệ, được ban cho một số người vì phúc lợi cho cộng đồng, tập thể, nhưng đúng ra phải hiểu là một hồng ân Chúa Thánh Linh ban cho mỗi người rộng mở tâm hồn đón nhận và tin vào Chúa Kitô.
Hồng ân này cần phải được chú ý đặc biệt, nhất là trong thời đại chúng ta. Ngày nay nhiều người, có cả một số Kitô hữu, loạng choạng trong ảo tưởng và huyền thoại về khả năng vô hạn đối với việc tự cứu và tự mình hoàn tất, cũng như cám dỗ có thái độ bi quan vì thất bại và thất vọng thường xảy ra. Mặc dầu đức hy vọng bao gồm động lực tâm lý của linh hồn phấn đấu hướng về sự thiện cao cả hơn, đức hy vọng Kitô hữu hiện hữu trên bình diện siêu nhiên của các thánh đức.
Đức hy vọng phát xuất từ ân sủng (tc. Summa Theol., III, q. a. 2), là hồng ân Thiên Chúa ban cho người tín hữu trong lãnh vực sự sống vĩnh cửu. Hy vọng là một thánh đức tiêu biểu của người lữ khách (homo viator), mặc dầu nhờ đức tin con người biết Thiên Chúa và ơn gọi vĩnh cửu của mình. Theo một ý nghĩa nào đó, Thư viết cho tín hữu Do Thái dạy: đức hy vọng làm cho người ta đi vào “nội tâm, vượt khỏi bức màn che” (tc. Heb 6:19).
Tuy nhiên, thánh đức này nhất thiết có chiều kích cánh chung. Vào Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Linh đã đến để hoàn tất những lời hứa cho việc truyền bá ơn cứu độ, như chúng ta đọc trong Công Vụ Tông Đồ: “(Chúa Giêsu) được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, Ngài đã nhận được lời hứa về Chúa Thánh Linh từ Chúa Cha và tuôn đổ ra” (Cv 2:33). Tuy nhiên, việc hoàn tất lời hứa này dự liệu trải ra suốt dòng lịch sử, cho tới những ngày sau cùng. Đối với những người tin vào lời Thiên Chúa trong Chúa Kitô mà các tông đồ rao giảng, thì thế mạt đã khởi đầu hoàn tất.
Hoặc đúng hơn, chúng ta có thể nói lời hứa cánh chung đã hoàn tất theo phương diện căn bản của nó: sự hiện diện của Chúa Thánh Linh trong dòng lịch sử nhân loại, mà từ biến cố Lễ Hiện Xuống sự việc đó có ý nghĩa và có sức thúc đẩy quyết định theo mục đích thần linh đối với từng người và toàn thể nhân loại. Niềm hy vọng của thời Cựu Ước căn cứ vào lời hứa về sự hiện diện và quan phòng trường tồn của Thiên Chúa hiển lộ trong Đấng Thiên Sai. Trong Tân Ước, đức hy vọng đã cho chúng ta nếm trước vinh quang tương lai qua ân sủng mà Chúa Thánh Linh là căn nguyên.
Theo viễn ảnh này, Thánh Phaolô minh xác hồng ân Chúa Thánh Linh tương tự như lời đoan hứa về hạnh phúc tương lai. Ngài viết cho tín hữu tại Ephesus: “Anh chị em đã được niêm ấn Chúa Thánh Linh Đấng mà Thiên Chúa đã hứa và là bảo chứng thứ nhất về phần gia nghiệp của chúng ta chờ ngày dân Chúa được cứu độ, để chúc tụng vinh quang Ngài” (Eph 1:13-14; tc. 4:30; 2 Cor 1:22). Chúng ta có thể nói trong đời sống Kitô hữu nơi trần thế, đức hy vọng là biểu tượng khởi đầu cho việc tham dự đầy đủ vinh quang Thiên Chúa. Chúa Thánh Linh bảo đảm việc đạt tới sự sung mãn đời sống vĩnh cửu khi mà nhờ những hiệu lực ơn cứu chuộc, tất cả mọi hiệu lực khác của tội lỗi, như đau khổ và sự chết, đều bị khắc phục.
Như thế đức hy vọng Kitô Giáo không những chỉ là một bảo đảm, mà cũng còn là việc nếm trước thực tại của đời sau. Niềm hy vọng mà Chúa Thánh Linh thắp lên trong người Kitô hữu cũng có chiều kích vũ trụ, gồm cả trời và đất, chiều kích có thể cảm nghiệm được, và chiều kích vượt quá tầm với của chúng ta về những điều biết và những điều không biết được. Thánh Phaolô viết: “Muôn loài thụ tạo trông đợi ngày Thiên Chúa mạc khải về con cái của Ngài.
Muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng vì Thiên Chúa bắt chịu vậy, hy vọng là có ngày các thụ tạo được giải thoát khỏi ách nô lệ sự hư hoại, mà cùng chia sẻ tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa. Cho tới nay, chúng ta biết mọi tạo vật rên siết và quằn quại như sắp sinh con; và không phải chỉ muôn loài mà thôi, cả chúng ta nữa, những người là hoa trái đầu của Thánh Linh, chúng ta cũng rên xiết trong lòng khi chúng ta chờ đợi được thừa nhận làm nghĩa tử, trông chờ ơn cứu độ thân xác chúng ta” (Rom 8:19-23).
Ý thức về ơn gọi của nhân loại và số phận hoàn vũ, người Kitô hữu hiểu ý nghĩa giai đoạn hoàn vũ phát triển này và học biết đó là việc Thiên Chúa nhìn nhận tất cả mọi người là nghĩa tử, những người được kêu gọi chia phần vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng trên toàn thể mọi thụ tạo. Người Kitô hữu biết mình sở đắc những hoa trái đầu của việc thừa nhận làm nghĩa tử trong Chúa Thánh Linh, và vì thế với hy vọng vững chắc họ hướng về ngày cánh chung (hướng về số phận chung cuộc của hoàn vũ), ngay cả giữa những thử thách của thời gian.
Nhờ đức tin soi sáng, người theo Chúa Kitô hiểu ý nghĩa và hầu như cảm nghiệm sự thật của đoạn kế tiếp trong Thư cho tín hữu tại Roma, Thánh Tông Đồ bảo đảm: “Chúa Thánh Linh đến để giúp đỡ sự yếu hèn của chúng ta; vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Linh cầu bầu cho chúng ta bằng những tiếng thở dài khôn tả. Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi tâm hồn, biết ý định của Thánh Linh, vì Thánh Linh cầu bầu cho những người thánh thiện theo thánh ý Thiên Chúa” (Rom 8:26-28). Như chúng ta thấy, Chúa Thánh Linh hiện diện, cầu nguyện và hoạt động tại chính nơi sâu thẳm của linh hồn. Chúa Thánh Linh làm cho chúng ta tiến tới mỗi ngày một trọn vẹn vào viễn ảnh của kết cuộc tối hậu là Thiên Chúa, hòa hợp toàn thể cuộc sống chúng ta với chương trình cứu độ của Ngài.
Vì thế chính Chúa Thánh Linh giúp chúng ta cầu nguyện, cầu nguyện trong chúng ta, bằng tâm tình và ngôn từ của con cái Thiên Chúa (tc. Rom 8:15, 26-27; Gal 4:6, Eph 6:18), trong liên kết tinh thần thân mật và có tính cách cánh chung cùng với Chúa Kitô Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa và cầu bầu cho chúng ta (tc. Rom 8:34; Dt 7:25; 1 Jn 2:1).
Như thế, Chúa cứu chúng ta khỏi ảo ảnh và lạc đường cứu độ. Trong khi chuyển động mọi trái tim hướng về mục đích chính thực của cuộc sống, Chúa giải phóng chúng ta khỏi thái độ bi quan (pessimism) và thuyết hư không (nihilism). Những cám dỗ này đặc biệt ngấm ngầm đối với những người không khởi đầu bằng tiền đề đức tin, hoặc tối thiểu là với lòng thành thực khát vọng tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng ta phải nói thêm là thân xác cũng tham dự vào chiều kích của niềm hy vọng mà Chúa Thánh Linh ban cho nhân loại.
Thánh Phaolô cũng nói với chúng ta như thế: “Nếu Thánh Linh của Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết ngự trong anh chị em, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại cũng sẽ ban sự sống cho thân xác phải chết của anh chị em, nhờ Thánh Linh của Ngài ngự trong anh chị em” (Rom 8:11; tc. 2 Cor 5:5).
Bây giờ chúng ta đồng ý về việc đã nghiên cứu khía cạnh hy vọng trong nhân chủng học cũng như trên bình diện vũ trụ và cánh chung học. Chúng ta sẽ trở lại đề tài này trong những bài giáo lý, nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ dành riêng cho những đề tài hấp dẫn và căn bản này của niềm tin Kitô giáo: thân xác loài người sống lại và cuộc sống vĩnh cửu của con người trọn vẹn, xác và hồn. Cũng còn một điểm nữa cần phải đề cập tới: cuộc hành trình đời sống trần thế kết thúc vào giây phút đầu tiên của hạnh phúc vĩnh cửu, nếu một người đạt tới kết thúc đó trong ân nghĩa, trong tình bằng hữu với Thiên Chúa. Cho dù, nếu trên đường về thiên đàng, linh hồn phải trải qua thanh tẩy những bất toàn cuối cùng nơi luyện ngục, người đó đã được tràn đầy ánh sáng, xác tín và vui mừng, vì (người đó) biết mình vĩnh viễn thuộc về Thiên Chúa.
Vào giây phút cuối cùng này, linh hồn được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, Đấng khởi nguồn và ban ân, không những chỉ “đệ nhất ân sủng” công chính mà còn thánh hóa suốt cuộc đời trần thế, nhưng cũng ban cho con người ơn vinh hiển vào giờ chết. Đó là ơn kiên dũng cuối cùng, theo giáo huấn của Công Đồng Orange (tc. DS 183, 199) và Công Đồng Trent (tc. DS 809, 832). Điều này dựa trên giáo huấn của thánh Tông Đồ Phaolô: chính nhờ Thiên Chúa mà anh chị em “ước muốn và làm điều thiện hảo” (Phil 2:13), nên chúng ta phải cầu xin để được ơn làm việc thiện (việc lành) cho đến giờ lâm tử (tc. Rom 14:4; 1 Cor 10:12; Mt 10:22; 24:13).
Những lời Thánh Phaolô sau đây giúp chúng ta nhìn thấy trong ân sủng của Ngôi Ba Thiên Chúa sự bảo đảm việc chu toàn hy vọng ơn cứu độ: “Đức trông cậy không làm thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn đổ vào trái tim chúng ta nhờ Chúa Thánh Linh Đấng được ban cho chúng ta” (Rom 5:5). Và vì thế, “Điều gì sẽ chia rẽ chúng ta khỏi tình yêu của Chúa Kitô?” Câu trả lời có tính cách quyết định là: không sự gì “có thể chia rẽ chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô Giêsu Chúa chúng ta” (Rom 15:13).
Hy vọng là uyên nguyên sự lạc quan Kitô Giáo, một sự lạc quan về số phận vũ trụ, khả dĩ luôn luôn sẵn sàng hưởng ơn cứu độ, cho dù vào những lúc khó khăn nhất, những giai đoạn khó khăn nhất trong việc phát triển lịch sử hướng về vinh quang toàn hảo của Chúa Kitô (“Ngài sẽ tôn vinh Thầy”: Jn 16:14) và việc tham dự trọn vẹn của người tín hữu vào vinh quang con cái Thiên Chúa. Trong viễn ảnh này người Kitô hữu có thể ngẩng cao đầu và cất lên lời cầu khẩn, theo Sách Khải Huyền, là tiếng kêu sâu thẳm nhất Chúa Thánh Linh vang vang suốt dòng lịch sử: “Thánh Linh và Cô Dâu nói, Xin Ngài ngự đến!” (Kh 22:17).
Bây giờ chúng ta cùng nhau lắng nghe lời kêu mời cuối cùng trong Sách Khải Huyền và toàn thể Tân Ước: “Bất cứ người nào nghe thấy, Xin mời đến! Ai khát, hãy đến, và ai muốn hãy nhận lấy nước trường sinh ... Xin hãy ngự đến, lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến!” (Kh 22:17, 20).
Buổi gặp chung ngày 3 tháng Bảy, 1991
*** Het **
Links:
[1] http://www.thanhlinh.net/node/10173
[2] http://www.thanhlinh.net/