CÂY NẾN SÁNG (Lễ DÂNG CHÚA GIÊ-SU TRONG ĐỀN THÁNH)
Ngày lễ hôm nay có hai ý nghĩa: thanh tẩy Đức Maria và dâng Chúa Giê-su vào đền thánh theo luật Mô-sê dạy. Theo luật này, người nữ sau khi sinh con thì bị nhơ uế. Trong thời gian bị ô uế như thế, họ không được phép vào đền thờ, cũng chẳng được chạm đến vật thánh. Sau thời gian đó (Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày), họ phải đến đền thờ để được thanh tẩy. Khi đi, họ phải mang theo một con chiên nếu là nhà giàu, còn nhà nghèo thì một cặp chim gáy hay bồ câu non để làm của lễ. Ngoài ra, để ghi nhớ ngày vượt qua khỏi nước Ai Cập: các con đầu lòng của người Ai Cập bị giết chết, còn các con của người Do Thái được cứu sống, luật này còn dạy các con đầu lòng của loài người cũng như của loài vật phải dâng hiến cho Thiên Chúa như Lời Người dạy: “Hãy dâng cho Ta tất cả các con đầu lòng cả của người cả của vật trong dân Israel. Hết thảy chúng thuộc về Ta.”
Đức Mẹ và thánh Giu-se tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa theo luật Mô-sê: Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa. Nghi lễ này gợi nhớ sự kiện ngày xưa khi Mô-sê xin vua Pha-ra-ôn thả cho dân Israel ra khỏi Ai Cập, vua đã không nghe. Đức Chúa đã cho xảy ra những tai ương để cho vua Pha-ra-ôn tỉnh ngộ, nhận ra bàn tay Đức Chúa can thiệp, mà thả cho dân Israel ra đi, nhưng Pha-ra-ôn vẫn cứng lòng. Cuối cùng, Đức Chúa dùng hình phạt là mọi con trai đầu lòng của người Ai Cập bị giết, còn con trai đầu lòng của người Israel thì được sống.
Với sự kiện này, sau khi ra khỏi Ai Cập, Mô-sê truyền cho dân hãy tạ ơn Chúa và tưởng niệm biến cố xuất hành ra khỏi Ai Cập bằng nghi lễ dâng hiến con trai đầu lòng. Ông Si-mê-on được Tin Mừng gọi là người công chính, chắc chắn ông đã lên đền thờ nhiều lần và nhiều lần được chứng kiến việc dâng hiến như thế. Tuy nhiên, ngày Đức Maria và Thánh Giu-se dâng Đức Giê-su vào đền thánh, ông nhận thấy một sự lạ lùng xảy ra nơi ông cũng như nơi trẻ Giê-su. Nơi ông, ông được Thánh Thần thúc đẩy lên đền thờ. Nơi trẻ Giê-su, ông nhận thấy đó là Đấng tỏa ra một thứ ánh sáng cứu độ, vì thế ông mở miệng chúc tụng Thiên Chúa: “Chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài.” (Lc 2, 30-32).
Lễ Dâng Đức Giê-su Vào Đền Thánh còn được gọi là Lễ Nến. Gọi là Lễ Nến thật thích hợp, không chỉ vì đầu lễ có nghi thức làm phép nến và thắp nến, mà còn vì trong lời chúc tụng, ông Si-mê-on gọi Đức Giê-su là “ánh sáng”. Đức Mẹ bế Đức Giê-su vào đền thánh và Đức Giê-su tỏa ra ánh sáng thần linh, nên chúng ta cũng có thể nói là Đức Mẹ bế “cây nến sáng” là Đức Giê-su. Chính thánh Gio-an trong Lời tựa sách Tin Mừng của ngài đã gọi Đức Giê-su là Ngôi Lời, và Ngôi Lời là sự sống, là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1, 1-3).
Đức Maria và thánh Giu-se đã đem Đức Giê-su lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Thiên Chúa. Mỗi người Ki-tô hữu cũng được đưa đến nhà thờ tiến dâng cho Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Hôm ấy, nếu là đứa bé lãnh nhận bí tích, cha mẹ hay người đỡ đầu cầm cây nến được thắp sáng và nói lời tuyên xưng đức tin thay cho đứa bé; nếu là người lớn lãnh nhận bí tích thì chính họ cầm cây nến được thắp sáng và nói lời tuyên xưng đức tin. Cây nến sáng trong ngày lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy cũng gợi nhớ nhiệm vụ tỏa chiếu ánh sáng của Đức Giê-su.
Với lời mời gọi của Chúa và với ý thức, một số người muốn sống trọn vẹn hơn những đòi hỏi của bí tích Thánh Tẩy, nên dâng hiến cuộc đời mình qua việc thánh hiến (khấn dòng). Trong nghi thức khấn dòng người tu sĩ không cầm cây nến khi đọc lời khấn, nhưng chính nội dung lời khấn mà họ công khai đọc cũng nói lên rằng con người mình là cây nến tự nguyện dâng hiến, chấp nhận tiêu hao vì tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân. Bởi lẽ sống nội dung của các lời khấn không gì khác hơn là sống những đòi hỏi của tình yêu: “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” (Đnl 6, 5; Mt 22, 37). Yêu đến mức độ ấy chính là tiêu hao con người của mình như cây nến sáp cháy càng lúc càng tiêu hao đi.
Yêu hết mức độ, tiêu hao hết con người của mình thì cuộc đời dâng hiến của mình mới thật là dâng hiến trọn vẹn. Và cái mà chúng ta gọi là hy sinh vì yêu, hy sinh chấp nhận tiêu hao mới mang lại niềm vui to lớn và cuộc đời dâng hiến của mình mới thực sự có giá trị. Người tham dự lễ nến, tay cầm nến cháy sáng trong tay. Chắc chắn không ai muốn cầm cây nến cứ thắp lên lại tắt, hay cầm cây nến để nguyên xi vậy không thắp sáng. Trái lại, mong muốn cho cây nến của mình cháy sáng không bị tắt, dù có bị gió thổi.
Khi Đức Giê-su được hiến dâng, ông Si-mê-on đã nói tiên tri về hài nhi Giê-su rằng: “Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng.” (Lc 2, 34) Rồi ông nói với Đức Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2, 35). Lời tiên tri ấy đã hiện thực qua cuộc thương khó và cái chết của Đức Giê-su. Nay những người thánh hiến qua ơn gọi linh mục và tu sĩ cũng đã và sẽ tiếp tục bị chống báng hay bị “lưỡi gươm” nào đó đâm thâu, làm cho con người của mình tiêu hao trong Chúa. Có như thế con người dâng hiến mới thật là cây nến sáng. Và cây nến mà mình cầm đầu lễ là hình ảnh của cây nến thật là chính con người dâng hiến của mình.
Tóm lại, vấn đề cầu nguyện cho mình trở thành cây nến sáng không chỉ dành riêng cho người thánh hiến, mà là của toàn Giáo hội. Vì thế, người Ki-tô hữu cần phải hiểu rằng bản thân mình cũng luôn mong ước được trở thành cây nến sáng trong gia đình, trong giáo xứ, và rộng ra toàn Giáo hội. Hãy dâng lời cầu nguyện cho bản thân và cho anh em được Chúa Giê-su ban ơn cho được như ước nguyện. Ước được như vậy. Amen.
JM.Lam Thy ĐVD.